Võ thuật dân tộc Băng Long.
Là một tộc người sinh sống tại địa khu Vân Nam, thời cổ được gọi là Bộc Nhân (濮人). Trong thư tịch đời Đường có ghi lại các bộ tộc Mường Mán, chính là thuỷ tổ của dân tộc Băng Long vậy.
Dân tộc Băng Long bản tính vũ dũng thượng võ, học võ thuật theo kiểu cha truyền con nối. Băng Long tộc tự gọi lối võ thuật của mình là Tả Quyền ( Cú đấm tay trái). Điều này rất giống trong Boxing rằng khi thượng đài, cú đấm tay trái sẽ luôn được coi trọng, được tung ra cuối trận đấu lúc đối thủ mệt mỏi và bất cẩn. Cho nên mà người đời thường hay nói: “ Cú đấm tay trái quyết định thắng thua” là vì vậy.
Võ thuật của dân tộc Băng Long thường thủ thế cao nhằm tiện lợi cho việc tấn công và thoái hậu . Đồ hình luyện tập cũng thường theo đường thẳng , xoay mình rồi lại theo đường thẳng tiến thoái mà thôi . Họ cũng hay dùng các nhạc khí như thanh la , trống để trợ hứng lúc đi quyền , tạo nên hứng thú luyện tập.
Vũ khí của dân tộc Băng Long chủ yếu là Đao. Đao của người Băng Long , hình dáng đẹp đẽ, chủng loại phong phú , dài ngắn khác nhau , lưỡi dao thẳng có rãnh thoát máu , trên rộng bản dưới hẹp, mũi dao lệch . Cán thường làm bằng ba loại nguyên liệu là gỗ, xương và sừng . Đây là một công cụ sản xuất , lại là một thứ vũ khí , kích thước và hình dáng tựa như trái lựu đạn , nặng khoảng 0,5kg , một đầu buộc vào sợi dây thừng nhỏ dùng khi chiến đấu có thể buộc vào tay, tiện lợi che giấu nơi cổ tay, xuất kì bất ý đả thương đối thủ .
Võ thuật đã giúp dân tộc Băng Long rất nhiều trong công cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và xâm lược. Cụ thể như mùa đông năm 1944, khi quân Nhật vượt qua sông Nộ, vùng thung lũng núi Cao Lê, một thanh niên Băng Long đã dùng đao thuật của dân tộc mình chém chết ba tên lính Nhật lạc đơn vị .
Trịnh Vân Hải
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số).
Thứ Hai, 9 tháng 7, 2007
TAEKWONDO
Taekwondo-niềm tự hào của người Hàn Quốc.
Taekwondo hay còn được gọi dưới nhiều cái tên như Thái Cực Đạo, Túc Quyền Đạo và gần đây là Đài Quyền Đạo, một trong những môn võ phổ biến nhất, có số môn sinh lên đến hàng triệu người.
Sang Hàn Quốc, người ta thường thấy những cao thủ môn võ này thi triển những công phu chặt gạch đá bay, đòn thế đơn giản, tốc độ nhanh chóng và hiệu quả, xứng đáng là một môn tự vệ cho quần chúng. Taekwondo có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá, thể chất cũng như tinh thần của người Hàn Quốc. Đứng bên kia chiến tuyến, trong khi người Bắc Hàn theo lời hô hào của chủ tịch Kim Nhật Thành, say mê với môn Hapkido hay còn gọi là Hiệp Khí Đạo thì ở bên này những chàng “Baeyongjun” hay “Jangdong gun” lại đắm đuối với những gì mãnh liệt mà Taekwondo mang lại.
Taekwondo dạy người ta biết vận động một cách vật lí. Đây là một nguyên tắc thể hiện những cách thức nâng cao tinh thần và cuộc sống qua việc rèn luyện một cơ thể sắt đá và tâm hồn không quản ngại khó khăn. Ngày nay, được nằm trong môn thi đấu của vũ trường quốc tế, Taekwondo không ngừng trở nên lớn mạnh. Để phân tích từ Taekwondo, ta thấy thành tố “Tae” có nghĩa là chân hay bước, “Kwon” là nắm đấm, “Do” là đạo hay con đường đi. Cụm từ này xác định rõ tiêu chí và phương hướng của môn phái.
Một cách hiểu rõ cụm từ này là cách thức đúng để sử dụng bàn chân và nắm tay, thứ hai còn là một đạo để những con người đi theo tu dưỡng, giải quyết mâu thuẫn nơi mình và bên ngoài nhằm giúp chúng ta có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp và hoà bình hơn.
Với tinh thần như thế, Taekwondo đã phát triển suốt 5000 năm trong lịch sử lâu dài của vùng đất Triều Tiên dưới nhiều tên gọi khác nhau. Ở Hàn Quốc, nó được bắt đầu như là một môn võ tự vệ gọi là Subak hay Takkyeon như thể là một phương pháp thư giãn và dưỡng sinh, trui rèn cơ thể của vương quốc Cao Cú Lệ mà sau này phát triển thành môn Sunbae. Trong thời kì Silla, nó đã trở thành đã trở thành một môn đào tạo của chương trình Hwarangdo.
Giờ đây Taekwondo tương tự như những môn võ khác của các quốc gia phương Đông, tuy bắt chung có thể ở một nguồn nhưng môn võ này luôn có đặc điểm riêng, đó là tính khoa học tạo ra sự năng động của cơ thể và đặc biệt là bàn chân, hơn nữa những vận động này luôn tương đồng với tâm hồn và cuộc sống tự nhiên của vạn vật.
Như thế Taekwondo tựu chung luôn có sự thống nhất trong nội tại giữa cơ thể, tâm hồn và cuộc sống, sự hoà đồng này giúp nó xứng đáng trở thành một phương pháp rèn luyện, một thứ đạo học tu dưỡng của nhân dân Hàn Quốc.
Nguyễn Hạnh( Theo tư liệu võ thuật Hàn Quốc).
Taekwondo hay còn được gọi dưới nhiều cái tên như Thái Cực Đạo, Túc Quyền Đạo và gần đây là Đài Quyền Đạo, một trong những môn võ phổ biến nhất, có số môn sinh lên đến hàng triệu người.
Sang Hàn Quốc, người ta thường thấy những cao thủ môn võ này thi triển những công phu chặt gạch đá bay, đòn thế đơn giản, tốc độ nhanh chóng và hiệu quả, xứng đáng là một môn tự vệ cho quần chúng. Taekwondo có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá, thể chất cũng như tinh thần của người Hàn Quốc. Đứng bên kia chiến tuyến, trong khi người Bắc Hàn theo lời hô hào của chủ tịch Kim Nhật Thành, say mê với môn Hapkido hay còn gọi là Hiệp Khí Đạo thì ở bên này những chàng “Baeyongjun” hay “Jangdong gun” lại đắm đuối với những gì mãnh liệt mà Taekwondo mang lại.
Taekwondo dạy người ta biết vận động một cách vật lí. Đây là một nguyên tắc thể hiện những cách thức nâng cao tinh thần và cuộc sống qua việc rèn luyện một cơ thể sắt đá và tâm hồn không quản ngại khó khăn. Ngày nay, được nằm trong môn thi đấu của vũ trường quốc tế, Taekwondo không ngừng trở nên lớn mạnh. Để phân tích từ Taekwondo, ta thấy thành tố “Tae” có nghĩa là chân hay bước, “Kwon” là nắm đấm, “Do” là đạo hay con đường đi. Cụm từ này xác định rõ tiêu chí và phương hướng của môn phái.
Một cách hiểu rõ cụm từ này là cách thức đúng để sử dụng bàn chân và nắm tay, thứ hai còn là một đạo để những con người đi theo tu dưỡng, giải quyết mâu thuẫn nơi mình và bên ngoài nhằm giúp chúng ta có thể xây dựng một thế giới tốt đẹp và hoà bình hơn.
Với tinh thần như thế, Taekwondo đã phát triển suốt 5000 năm trong lịch sử lâu dài của vùng đất Triều Tiên dưới nhiều tên gọi khác nhau. Ở Hàn Quốc, nó được bắt đầu như là một môn võ tự vệ gọi là Subak hay Takkyeon như thể là một phương pháp thư giãn và dưỡng sinh, trui rèn cơ thể của vương quốc Cao Cú Lệ mà sau này phát triển thành môn Sunbae. Trong thời kì Silla, nó đã trở thành đã trở thành một môn đào tạo của chương trình Hwarangdo.
Giờ đây Taekwondo tương tự như những môn võ khác của các quốc gia phương Đông, tuy bắt chung có thể ở một nguồn nhưng môn võ này luôn có đặc điểm riêng, đó là tính khoa học tạo ra sự năng động của cơ thể và đặc biệt là bàn chân, hơn nữa những vận động này luôn tương đồng với tâm hồn và cuộc sống tự nhiên của vạn vật.
Như thế Taekwondo tựu chung luôn có sự thống nhất trong nội tại giữa cơ thể, tâm hồn và cuộc sống, sự hoà đồng này giúp nó xứng đáng trở thành một phương pháp rèn luyện, một thứ đạo học tu dưỡng của nhân dân Hàn Quốc.
Nguyễn Hạnh( Theo tư liệu võ thuật Hàn Quốc).
THẮNG CỐ
Vài điều về Thắng cố
Những ngày sống tại Bắc Kinh, thủ đô nước CHND Trung Hoa, trong những bữa ăn bình dân tôi thường được ăn một món gọi là Hututang ( Hồ Đồ thang), thực chất là một món canh nấu lẫn lộn các thứ rau và thịt ăn kèm với bánh bao chay của cộng đồng người Hoa.
Món ăn này ăn nóng khá ngon, nghe đâu được sáng tạo theo cảm hứng lấy từ câu nói “Nan đắc hồ đồ” nổi tiếng của Trịnh Nhiếp (Tức Trịnh Bản Kiều, một họa sĩ và nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc). Nhìn cách thức nấu hỗn độn này, tôi mường tượng đến ngay món Thắng Cố, một món canh được biết đến là “Linh hồn ẩm thực” của những phiên chợ vùng cao.
Sự xuất hiện của những món ăn với phương thức nấu hỗn độn kiểu này đã có từ lâu trong lịch sử ẩm thực Trung Hoa. Điều đó đã để lại dấu vết trong một số từ nguyên ví như Lẩu ( Từ chữ Lô, có nghĩa là lò), Tả Pí Lù ( Tức Đả Biên Lô, món ăn thập cẩm quanh một bếp lửa nấu sôi). Có lẽ Thắng cố cũng nằm trong những trường hợp như thế.
Chẳng ai biết Thắng cố xuất xứ từ đâu, có từ khi nào, chỉ biết quanh bếp lửa sùng sục canh sôi, những người con của bản làng say sưa theo âm hưởng núi rừng, và tình yêu ươm mầm, nảy nở.
Có giả thuyết từ Thắng cố xuất phát từ hai chữ Thang Hoắc, là một thứ canh thịt nấu lẫn lộn của người Hoa Hạ. Trong món canh đó, nguyên liệu chủ yếu là nước ninh xương và thịt có thể là từ lợn hay bò, được nấu và ăn trong những ngày lễ quan trọng trong những thủ tục hành chính thời cổ đại.
Món Thắng cố ở vùng cao Việt Nam lại thường được chế biến từ thịt ngựa với công thức nấu lẫn lộn cả xương, thịt, da và các bộ phận nội tạng, nghĩa là dường như không bỏ đi một chút nào trong cơ thể con ngựa. Từ hình thức khởi đầu này, người ta có thể biến tướng bằng cách dùng thịt bò hay lợn thay cho thịt ngựa, thậm chí sau này là tất cả những gì có thể ăn được đều có thể đưa vào nồi.
Nghe bà tôi kể lại, trên vùng cao thì Thắng cố được chia làm hai loại. Đó là món Thắng cố dành cho những người bình dân và một loại khác dành cho những thành phần quan lại hay quí tộc vùng cao, các chức sắc trong làng bản.
Về cơ bản, Thắng cố vẫn là Thắng cố, tức là nó vẫn là một món canh nấu theo kiểu tập thể, chảo lớn đun lửa to, ăn uống theo những ngày hội lớn. Thế nhưng khác với loại Thắng cố bình dân nấu hỗn độn những gì có thể ăn như trên, công thức dành cho các nhà quí tộc vùng cao lại là những gì đã được làm sạch sẽ tuy vẫn là nước xương, thịt và nội tạng. Loại Thắng cố như thế có vẻ “Nhã nhặn” hơn, phù hợp với những người miền xuôi tham gia phiên chợ. Đây cũng là công thức mà hiện nay được những người du lịch ưa chuộng.
Quan sát các dân tộc ở xứ lạnh phương Bắc, lúc hội hè họ thường có những hoạt động tập thể với những điệu múa quay tròn bên đống lửa. Trong cùng một trường tư duy như thế, nồi Thắng cố cũng mang một ý nghĩa gần tương tự. Bên nồi thắng cố ấm cúng, hơi lửa nóng cùng men say với sự góp mặt của các thành viên trong cộng đồng sẽ đem đến cảm giác được chở che, đoàn tụ và mọi người sẽ nghĩ tới một cuộc sống tốt đẹp, chan chứa tình yêu.
Để có một cái nhìn mang tính thực tế hơn về Thắng cố, người viết bài này xin được trích ra một đoạn nhan đề “Uống rượu ở vùng cao” được tuyển đăng trong tập Văn Hoá Rượu của tác giả Thái Lương do nhà XB Văn hoá Thông Tin xuất bản:
“Chợ Nước Hai thuộc Cao Bằng cũng như rất nhiều chợ ở Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Yên Bái… được coi là chợ miền núi có phong sắc đặc biệt. Người ta mua bán đủ mọi thứ. Những con ngựa đưa những người đàn ông, đàn bà xuống chợ. Các cô gái ăn mặc quần áo mới rủ nhau vào chợ. Những chàng trai cầm trong tay cái Khèn hay Kềnh, có thể biểu diễn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trước mặt những người đẹp vùng cao. Nhưng không có gì vui bằng mấy cái quán nhỏ lô nhô những người cười cười, nói nói ngồi chen chúc nhau. Họ rút ra những bình rượu riêng đem theo mang ra uống. Rượu ai người ấy uống. Họ đợi bát canh “Thắng cố”. Phía ngoài quán có một chiếc chảo to đặt trên ba hòn đá thay kiềng. Phía dưới đốt củi đùng đùng làm cho nước trong chảo sôi lên sùng sục. Người ta bỏ vào chảo những miếng thịt, những tim, gan, phổi, tiết và có khi cả bộ lòng, dạ dày của các hàng bán thịt lợn, bò, dê. Chảo Tạp Bí Lù, Thập Cẩm, Năm Cha Bảy Mẹ này gọi là “Thắng cố”, theo tiếng H’Mông. Mọi người ngồi vây quanh lấy quán bán Thắng cố để đợi ông chủ mang đến cho họ những bát Thắng cố hôi hổi. Với mọi người, Rượu và Thắng cố là đủ, là niềm tin, là lạc thú ở đời. … Thỉnh thoảng họ lại đưa vào chút gia vị như: Ớt, Tỏi, Rau thơm, nõn chuối để đưa đà cho Rượu… Ai chưa có cái rạo rực, hăm hở ngồi uống Rượu chờ bát Thắng cố nghĩa là chưa phải đi chợ cùng cao…”.
“…Anh lên chợ, còn em xuống chợ,
Ép nhau uống một bát Rượu đầy…
Rồi như chưa chồng chưa vợ,
Thật lòng say những lời say…”
Bên chảo Thắng cố bập bùng, mặt người đẹp hồng lên tia hy vọng, lòng ta bỗng dào dạt nỗi yêu đương. Uống bát rượu Ngô, ăn bát Thắng cố, trai gái đi chợ vùng cao như muốn gửi nụ hôn rạo rực…
Nguyễn Hạnh.
Những ngày sống tại Bắc Kinh, thủ đô nước CHND Trung Hoa, trong những bữa ăn bình dân tôi thường được ăn một món gọi là Hututang ( Hồ Đồ thang), thực chất là một món canh nấu lẫn lộn các thứ rau và thịt ăn kèm với bánh bao chay của cộng đồng người Hoa.
Món ăn này ăn nóng khá ngon, nghe đâu được sáng tạo theo cảm hứng lấy từ câu nói “Nan đắc hồ đồ” nổi tiếng của Trịnh Nhiếp (Tức Trịnh Bản Kiều, một họa sĩ và nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc). Nhìn cách thức nấu hỗn độn này, tôi mường tượng đến ngay món Thắng Cố, một món canh được biết đến là “Linh hồn ẩm thực” của những phiên chợ vùng cao.
Sự xuất hiện của những món ăn với phương thức nấu hỗn độn kiểu này đã có từ lâu trong lịch sử ẩm thực Trung Hoa. Điều đó đã để lại dấu vết trong một số từ nguyên ví như Lẩu ( Từ chữ Lô, có nghĩa là lò), Tả Pí Lù ( Tức Đả Biên Lô, món ăn thập cẩm quanh một bếp lửa nấu sôi). Có lẽ Thắng cố cũng nằm trong những trường hợp như thế.
Chẳng ai biết Thắng cố xuất xứ từ đâu, có từ khi nào, chỉ biết quanh bếp lửa sùng sục canh sôi, những người con của bản làng say sưa theo âm hưởng núi rừng, và tình yêu ươm mầm, nảy nở.
Có giả thuyết từ Thắng cố xuất phát từ hai chữ Thang Hoắc, là một thứ canh thịt nấu lẫn lộn của người Hoa Hạ. Trong món canh đó, nguyên liệu chủ yếu là nước ninh xương và thịt có thể là từ lợn hay bò, được nấu và ăn trong những ngày lễ quan trọng trong những thủ tục hành chính thời cổ đại.
Món Thắng cố ở vùng cao Việt Nam lại thường được chế biến từ thịt ngựa với công thức nấu lẫn lộn cả xương, thịt, da và các bộ phận nội tạng, nghĩa là dường như không bỏ đi một chút nào trong cơ thể con ngựa. Từ hình thức khởi đầu này, người ta có thể biến tướng bằng cách dùng thịt bò hay lợn thay cho thịt ngựa, thậm chí sau này là tất cả những gì có thể ăn được đều có thể đưa vào nồi.
Nghe bà tôi kể lại, trên vùng cao thì Thắng cố được chia làm hai loại. Đó là món Thắng cố dành cho những người bình dân và một loại khác dành cho những thành phần quan lại hay quí tộc vùng cao, các chức sắc trong làng bản.
Về cơ bản, Thắng cố vẫn là Thắng cố, tức là nó vẫn là một món canh nấu theo kiểu tập thể, chảo lớn đun lửa to, ăn uống theo những ngày hội lớn. Thế nhưng khác với loại Thắng cố bình dân nấu hỗn độn những gì có thể ăn như trên, công thức dành cho các nhà quí tộc vùng cao lại là những gì đã được làm sạch sẽ tuy vẫn là nước xương, thịt và nội tạng. Loại Thắng cố như thế có vẻ “Nhã nhặn” hơn, phù hợp với những người miền xuôi tham gia phiên chợ. Đây cũng là công thức mà hiện nay được những người du lịch ưa chuộng.
Quan sát các dân tộc ở xứ lạnh phương Bắc, lúc hội hè họ thường có những hoạt động tập thể với những điệu múa quay tròn bên đống lửa. Trong cùng một trường tư duy như thế, nồi Thắng cố cũng mang một ý nghĩa gần tương tự. Bên nồi thắng cố ấm cúng, hơi lửa nóng cùng men say với sự góp mặt của các thành viên trong cộng đồng sẽ đem đến cảm giác được chở che, đoàn tụ và mọi người sẽ nghĩ tới một cuộc sống tốt đẹp, chan chứa tình yêu.
Để có một cái nhìn mang tính thực tế hơn về Thắng cố, người viết bài này xin được trích ra một đoạn nhan đề “Uống rượu ở vùng cao” được tuyển đăng trong tập Văn Hoá Rượu của tác giả Thái Lương do nhà XB Văn hoá Thông Tin xuất bản:
“Chợ Nước Hai thuộc Cao Bằng cũng như rất nhiều chợ ở Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Yên Bái… được coi là chợ miền núi có phong sắc đặc biệt. Người ta mua bán đủ mọi thứ. Những con ngựa đưa những người đàn ông, đàn bà xuống chợ. Các cô gái ăn mặc quần áo mới rủ nhau vào chợ. Những chàng trai cầm trong tay cái Khèn hay Kềnh, có thể biểu diễn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trước mặt những người đẹp vùng cao. Nhưng không có gì vui bằng mấy cái quán nhỏ lô nhô những người cười cười, nói nói ngồi chen chúc nhau. Họ rút ra những bình rượu riêng đem theo mang ra uống. Rượu ai người ấy uống. Họ đợi bát canh “Thắng cố”. Phía ngoài quán có một chiếc chảo to đặt trên ba hòn đá thay kiềng. Phía dưới đốt củi đùng đùng làm cho nước trong chảo sôi lên sùng sục. Người ta bỏ vào chảo những miếng thịt, những tim, gan, phổi, tiết và có khi cả bộ lòng, dạ dày của các hàng bán thịt lợn, bò, dê. Chảo Tạp Bí Lù, Thập Cẩm, Năm Cha Bảy Mẹ này gọi là “Thắng cố”, theo tiếng H’Mông. Mọi người ngồi vây quanh lấy quán bán Thắng cố để đợi ông chủ mang đến cho họ những bát Thắng cố hôi hổi. Với mọi người, Rượu và Thắng cố là đủ, là niềm tin, là lạc thú ở đời. … Thỉnh thoảng họ lại đưa vào chút gia vị như: Ớt, Tỏi, Rau thơm, nõn chuối để đưa đà cho Rượu… Ai chưa có cái rạo rực, hăm hở ngồi uống Rượu chờ bát Thắng cố nghĩa là chưa phải đi chợ cùng cao…”.
“…Anh lên chợ, còn em xuống chợ,
Ép nhau uống một bát Rượu đầy…
Rồi như chưa chồng chưa vợ,
Thật lòng say những lời say…”
Bên chảo Thắng cố bập bùng, mặt người đẹp hồng lên tia hy vọng, lòng ta bỗng dào dạt nỗi yêu đương. Uống bát rượu Ngô, ăn bát Thắng cố, trai gái đi chợ vùng cao như muốn gửi nụ hôn rạo rực…
Nguyễn Hạnh.
ĐI TÀU SANG BẮC KINH
Đi tàu sang Bắc Kinh
Trung Quốc là một nước láng giềng phía Bắc tổ quốc ta. Đây là một cái nôi của loài người, nổi tiếng về văn hoá và cảnh đẹp. Hiện nay trong thời kì đổi mới. Trung Quốc đang dang tay vẫy chào những người bạn đến thăm quan với số lượng ngày càng nhiều. Để giúp đỡ những bạn yêu thích du lịch theo kiểu tự do, sau đây tôi xin trình bày một số kinh nghiệm tổng kết được qua một lần đi tàu kiểu “Bụi” tuyến Hà Nội Bắc Kinh.
Việc cần làm đầu tiên bạn phải đến lãnh sự Trung Quốc ở Hà Nội để xin visa tức thị thực nhập cảnh (Vào buổi sáng) với 30 USD, thủ tục cực kì đơn giản, mất từ 1 đến 3 ngày sẽ nhận được visa. Xin nhớ cho là ở ngay trước cổng luôn có một nhóm người sẵn sàng khai giấy tờ hộ bạn, thậm chí làm visa hộ bạn nếu thấy bạn còn lúng túng với giá cực bèo chừng 50-60.000VND.Có rất nhiều người mới đi lần đầu đã đồng ý sự giúp đỡ này.
Bạn nên mang theo passport (Hộ chiếu) đến ga Hà Nội mua vé trước 1 tuần so với ngày đi, giá khoảng từ 1 triệu 6 đến 1, 7 triệu tùy thời điểm. Nói chung giá vé năm trong khoảng 2 triệu VND kể cả ở bên nhà ga Bắc Kinh.
Các chuyến tàu đều khởi hành vào 18g30, phòng nhỏ 4 giường, máy lạnh và đi 45 tiếng. Bạn nên mang theo mì và thức ăn, vì trên tàu luôn có sẵn nước sôi và chỉ bán mỗi mì tôm với giá mắc gần gấp rưỡi. Đến 12g tối cùng ngày bạn đến ga Đồng Đăng, bạn làm thủ tục
khoảng hơn nửa tiếng và đóng 50 ngàn tiền tiêm chủng phòng bệnh thì chuyển sang tàu liên vận của Trung Quốc. Con tàu này đẹp và êm hơn tàu trước nhiều vì đường ray to hơn bên Việt Nam, nhưng ở đây chỉ có một thông dịch duy nhất biết nói tiếng Việt, còn lại toàn bộ đều nói tiếng Hoa và hầu như không nói tiếng Anh . Như vậy khi khai giấy tờ nên hỏi kĩ người thông dịch hay chạy sang toa cạnh hỏi thăm những người biết tiếng hoặc đã có kinh nghiệm.
Họ có thể sẽ kiểm tra hành lý của bạn, lưu ý đừng mang trái cây và rau quả sẽ bị tịch thu. Ngoài mì tôm giá 7 tệ còn có 1 nhà hàng trên tàu nhưng giá rất mắc, một phần cơm bình thường giá khoảng 15 tệ. Tôi nhớ có một lần đã bị nhân viên tàu liên vận tịch thu cả một thùng nước mắm loại ngon mà tiếc đứt ruột. (Người Trung Quốc thường ăn Xị Du tức Xì Dầu, người Việt ta hay mang nước mắm sang ăn hay làm quà cho đồng bào xa quê).
Sau một giấc ngủ, khoảng 9g sáng hôm sau , tàu dừng tại ga Nam Ninh,Trung Quốc. Lúc đó nhân viên tàu sẽ gõ cửa báo một câu: “Tao Nán Nính lợ!” (Đến Nam Ninh rồi!) Bạn để hành lý trên tàu ra ngoài khoảng hơn 30 phút – 1 tiếng để nhà ga cẩu toa đổi ray xong thì lên tàu đi thẳng Bắc Kinh. Trong khoảng thời gian nghỉ bạn có thể thưởng thức bữa sáng đầu tiên tại Trung Quốc với giá khoảng 3 tệ tại các quán ăn gần ga. Thức ăn ở Nam Ninh tương đối dễ ăn và hợp khẩu vị với người Việt. Bạn có thể ăn các loại mì và cháo là hợp lý nhất. Nên nhớ đừng tham mua nhiều quà nhiều lúc này vì chúng ta còn phải đi một chuyến xa nữa. Đi vào khoảng tháng 9 hoặc tháng 10, bạn sẽ được gặp rất nhiều học sinh VN trên tàu. Nhớ hỏi thêm họ kinh nghiệm đi đường. Nhớ là đây là tàu liên vận, hãy tỏ ra lịch sự, thân thiện nhưng ít nói để tránh hiểu nhầm. Một điều cần nhắc nữa là không tắt mắt các đồ lặt vặt trên tàu. Có lần một người đã định lấy trộm cái để dép ở trên tàu vì tưởng đây là cái khay trà bằng gỗ.
Khoảng 3g chiều hôm sau sẽ đến ga Bắc Kinh Tây (Beijing Xizhan), bạn nên cẩn thận nếu thuê những người khuân vác hành lý (Còn gọi là hội Mũ đỏ) và nhớ giữ lại cuống vé. Đi bộ khoảng 7 phút (nếu hành lý bạn không quá lủng củng) sẽ đến được ga tàu điện ngầm gần nhất. Mua vé 3 tệ và lên tàu và có thể chọn nhà trọ theo những hướng dẫn của người có kinh nghiệm. Nên nhớ Bắc Kinh rất rộng và nhiều người, nếu đi tập thể cần chú ý kẻo lạc. Có một lần sang làm việc với giáo sư Nhan Bảo tại trường ĐH Bắc Kinh, dù biết tiếng tôi cũng phải mất hai lần mới tìm thấy nhà vì đường đi quá lằng nhằng, phần vì Bắc Kinh tuy là thủ đô nhưng hiện nay người ngoại tỉnh nhiều, cho nên họ dùng rất nhiều thổ ngữ khác nhau, việc giao dịch thậm chí còn khó khăn cả với những người Trung Quốc. Nói đến điều này là để cảnh báo các bạn chớ chủ quan nếu đã biết được chút ít tiếng phổ thông. Nếu có nghe nói tốt cả giáo trình cao cấp Kiều Lương cũng chưa ăn nhằm gì với thực tế. Có người mới học được xong giáo trình 301 do chủ quan đã bị lạc ở Di Hoà Viên đến tận nửa ngày. Đối với người Trung Quốc ở Bắc Kinh, cách nói uốn lưỡi là một sở thích nhưng lại là nỗi kinh hoàng đối với tất cả các người Trung Quốc tỉnh khác.
Khi ở bên đó tôi đã từng thuê phòng với giá 40 tệ một ngày trong 4 ngày tốn 160 tệ. Bạn lưu ý check out ra khỏi nhà trọ trước 12g trưa và chọn nơi gần các trạm tàu điện ngầm, vì đi tàu điện ngầm tiện lợi hơn đi xe bus. Loại phòng tôi thuê giống như kí túc xá,có khoảng 8 giường 2 tầng, máy lạnh, 3 nhà tắm, dùng Internet miễn phí trong 30 phút nhưng phải đăng kí từ hôm trước. Lại lưu ý là trong một nhà khách bao giờ cũng có hai loại phòng là A và B tuỳ theo số người và số tiền bỏ ra. Bạn nên tham khảo trước khi chọn. Bạn cũng có thể tham khảo các nhà trọ rẻ tiền ở trang www.hostelworld.com.
Những ngày tại Bắc Kinh bạn có thể đi tàu điện ngầm đến khu Vương Phủ Tỉnh mua sắm, đi tàu điện ngầm đến tham quan Tử Cấm Thành. Sau khi xếp hàng mua vé giá 70 tệ, bạn có thể tham quan thoải mái.Tử Cấm Thành đóng cửa khoảng 17g. Nếu có ghé qua các khu chợ nhỏ ở ngay các trạm tàu điện ngầm như chợ Tây Đơn bạn phải trả giá thật lực. Ở khu du lịch tại Bắc Kinh, giá tiền cao thấp có hai mùa tuỳ theo đúng tháng du lịch hay không. Vào những tháng du lịch, giá tiền đắt hơn khá nhiều, bạn nên cẩn thận.
Bạn cũng có thể đi tàu điện ngầm với loại vé 5-6 tệ ra ngoại thành bắt xe bus (giá 5 tệ) thăm Cung Điện Mùa Hè tức Di Hoà Viên. Bạn đừng mua loại vé 50 tệ vào được 5 cửa vì Cung Điện Mùa Hè cực kì rộng lớn, chỉ nên mua vé 30 tệ, nếu còn đủ sức bạn hãy mua tiếp vé vào từng cổng tham quan và đừng quên lên thuyền đi quanh Hồ Tây với giá 8 tệ. Hãy cẩn thận vì tất cả các địa điểm tham quan ở Bắc Kinh đều vào một cửa và ra một cửa, thế cho nên đường đi sẽ là đi thẳng và không quay đầu lại. Nếu đi theo đoàn phải nắm vững điều này kẻo lạc.
Các buổi chiều còn lại bạn có thể tham quan các thắng cảnh khác hoặc đi mua sắm. Nếu được, bạn có thể la cà ở các hang quán lề đường để ăn món mỳ truyền thống làm tay giá chỉ 5 tệ, ăn cơm no nê ở các quán ăn nhỏ với giá chỉ khoảng 7 tệ hoặc loại sữa chua truyền thống giá 4 tệ. Cũng đừng quên mua chai trà xanh hay đỏ giá chỉ 3 tệ mà bạn thấy hầu như mọi người Bắc Kinh đều cầm trong tay (Người Trung Quốc không thích uống chung, nhất là sau dịch cúm H5N1, tốt nhất là bạn nên có chai nước của riêng mình).
Đối với bạn ưa lang thang uống rượu đêm thì tôi mách bạn món Lẩu dê có thể tìm thấy nhiều ở Bắc Kinh, rất bổ, rất vào và đồng thời rất rẻ vì thịt dê ở Trung Quốc thường được chiết khấu từ 6-10%. Một điều nữa muốn nhắc bạn là các cửa hàng ăn Trung Quốc rất ghét ai tự mang đồ uống vào. Để lựa chọn loại Rượu bổ phù hợp với Lẩu dê bạn nên chọn loại Trung Quốc Kình tửu (Zhongguo jin’r jiu) là ngon hơn cả. Cũng có thể chọn loại bia Yên Kinh là vừa ngon và hợp lý. Lẩu dê có nhiều món, bạn có thể gọi xương, nướng hay Lẩu nước trong hay đục, nhưng có một món đó là Dương Bảo (Yang bảo) tức “Hộp số của dê” là món các quí ông hay dùng tại Việt Nam. Có lần gọi món này, cô gái phục vụ người Cam Túc má đỏ như quả Bồ Quân cứ bụm miệng cười mãi.
Buổi tối ở Bắc kinh có hai nơi những người mới sang du lịch cấm kị đừng mò tới, đó là những quán Bar, nhất là nhà hàng Vodka Mạc Tư Khoa và khu đèn đỏ tức là những nhà hàng Karaoke có tiếp viên. Giá cả ở những nơi này rất đắt và khắc nghiệt, có người VN sang vì thiếu tiền lại có thái độ không đúng mực đã phải mặc quần đùi cởi trần đi về khách sạn.
Đấy là những cái bên ngoài, còn ở trong nhà trọ bạn nên nhớ là phải cẩn thận với những tiếng gõ cửa ban đêm vì đây chính là tiếng các tiếp viên gạ gẫm mại dâm. Bạn cũng đừng bấm điều khiển vô tuyến lung tung vì có thể bấm nhầm vào chương trình phim tươi mát mà thường phải trả rất nhiều tiền. Lại nữa, hãy giữ sao cho đúng cốt cách của một người khách du lịch sang thăm nước bạn. tuyệt đối không ăn cắp bất cứ thứ gì, một là sẽ phải trả thêm tiền đối với những đồ không tính theo gói thuê phòng như viên tránh thai, bao cao su.v.v…
Ngày cuối ở Bắc Kinh bạn đến ga để mua vé về VN hoặc bạn chọn vé giá 283 tệ để đến Thượng Hải trong 13g .Từ Thượng Hải mua tiếp vé tàu giá chỉ 30 tệ và cứ 3g lại có tàu đến Hàng Châu chỉ trong 2g.
Như vậy cả chuyến đi ở Bắc Kinh theo kiểu này chỉ mất 4 triệu cho phí đi lại, chi phí riêng chỉ khoảng 320 ngàn cho tiền ở, 300 ngàn cho tiền vé vào các khu tham quan và có gần 400 ngàn cho thưởng thức ẩm thực. Về Nam Ninh, lúc này bạn mới nên mua quà kỷ niệm bởi cái gì cũng có lại rất rẻ và không nặng nề.
Nếu có thể bạn nên ngủ lại thành phố nhỏ bé này một đêm để được thưởng thức món nướng đêm nơi đây, một món ăn rất phổ biến vào ban đêm ở Nam Ninh.
Trên đây là một số kinh nghiệm “Đi bụi” cơ bản ở Trung Quốc. Tuy những kiến thức này còn rất sơ sài nhưng người viết bài này chỉ mong muốn qua đây đóng góp một lượng kiến thức nho nhỏ cho những người bạn Tứ Hải yêu du lịch.
Nguyễn Hạnh ( Kỉ niệm Trung Hoa)
Nếu bạn bị lạc ở thành phố Bắc Kinh, hãy liên lạc ngay đến địa chỉ sau:
Guang Hua Lu.
No.32, Beijing. 100600
Tel: 65 321 155-65 321 125; Fax: 65 325 720.
Trung Quốc là một nước láng giềng phía Bắc tổ quốc ta. Đây là một cái nôi của loài người, nổi tiếng về văn hoá và cảnh đẹp. Hiện nay trong thời kì đổi mới. Trung Quốc đang dang tay vẫy chào những người bạn đến thăm quan với số lượng ngày càng nhiều. Để giúp đỡ những bạn yêu thích du lịch theo kiểu tự do, sau đây tôi xin trình bày một số kinh nghiệm tổng kết được qua một lần đi tàu kiểu “Bụi” tuyến Hà Nội Bắc Kinh.
Việc cần làm đầu tiên bạn phải đến lãnh sự Trung Quốc ở Hà Nội để xin visa tức thị thực nhập cảnh (Vào buổi sáng) với 30 USD, thủ tục cực kì đơn giản, mất từ 1 đến 3 ngày sẽ nhận được visa. Xin nhớ cho là ở ngay trước cổng luôn có một nhóm người sẵn sàng khai giấy tờ hộ bạn, thậm chí làm visa hộ bạn nếu thấy bạn còn lúng túng với giá cực bèo chừng 50-60.000VND.Có rất nhiều người mới đi lần đầu đã đồng ý sự giúp đỡ này.
Bạn nên mang theo passport (Hộ chiếu) đến ga Hà Nội mua vé trước 1 tuần so với ngày đi, giá khoảng từ 1 triệu 6 đến 1, 7 triệu tùy thời điểm. Nói chung giá vé năm trong khoảng 2 triệu VND kể cả ở bên nhà ga Bắc Kinh.
Các chuyến tàu đều khởi hành vào 18g30, phòng nhỏ 4 giường, máy lạnh và đi 45 tiếng. Bạn nên mang theo mì và thức ăn, vì trên tàu luôn có sẵn nước sôi và chỉ bán mỗi mì tôm với giá mắc gần gấp rưỡi. Đến 12g tối cùng ngày bạn đến ga Đồng Đăng, bạn làm thủ tục
khoảng hơn nửa tiếng và đóng 50 ngàn tiền tiêm chủng phòng bệnh thì chuyển sang tàu liên vận của Trung Quốc. Con tàu này đẹp và êm hơn tàu trước nhiều vì đường ray to hơn bên Việt Nam, nhưng ở đây chỉ có một thông dịch duy nhất biết nói tiếng Việt, còn lại toàn bộ đều nói tiếng Hoa và hầu như không nói tiếng Anh . Như vậy khi khai giấy tờ nên hỏi kĩ người thông dịch hay chạy sang toa cạnh hỏi thăm những người biết tiếng hoặc đã có kinh nghiệm.
Họ có thể sẽ kiểm tra hành lý của bạn, lưu ý đừng mang trái cây và rau quả sẽ bị tịch thu. Ngoài mì tôm giá 7 tệ còn có 1 nhà hàng trên tàu nhưng giá rất mắc, một phần cơm bình thường giá khoảng 15 tệ. Tôi nhớ có một lần đã bị nhân viên tàu liên vận tịch thu cả một thùng nước mắm loại ngon mà tiếc đứt ruột. (Người Trung Quốc thường ăn Xị Du tức Xì Dầu, người Việt ta hay mang nước mắm sang ăn hay làm quà cho đồng bào xa quê).
Sau một giấc ngủ, khoảng 9g sáng hôm sau , tàu dừng tại ga Nam Ninh,Trung Quốc. Lúc đó nhân viên tàu sẽ gõ cửa báo một câu: “Tao Nán Nính lợ!” (Đến Nam Ninh rồi!) Bạn để hành lý trên tàu ra ngoài khoảng hơn 30 phút – 1 tiếng để nhà ga cẩu toa đổi ray xong thì lên tàu đi thẳng Bắc Kinh. Trong khoảng thời gian nghỉ bạn có thể thưởng thức bữa sáng đầu tiên tại Trung Quốc với giá khoảng 3 tệ tại các quán ăn gần ga. Thức ăn ở Nam Ninh tương đối dễ ăn và hợp khẩu vị với người Việt. Bạn có thể ăn các loại mì và cháo là hợp lý nhất. Nên nhớ đừng tham mua nhiều quà nhiều lúc này vì chúng ta còn phải đi một chuyến xa nữa. Đi vào khoảng tháng 9 hoặc tháng 10, bạn sẽ được gặp rất nhiều học sinh VN trên tàu. Nhớ hỏi thêm họ kinh nghiệm đi đường. Nhớ là đây là tàu liên vận, hãy tỏ ra lịch sự, thân thiện nhưng ít nói để tránh hiểu nhầm. Một điều cần nhắc nữa là không tắt mắt các đồ lặt vặt trên tàu. Có lần một người đã định lấy trộm cái để dép ở trên tàu vì tưởng đây là cái khay trà bằng gỗ.
Khoảng 3g chiều hôm sau sẽ đến ga Bắc Kinh Tây (Beijing Xizhan), bạn nên cẩn thận nếu thuê những người khuân vác hành lý (Còn gọi là hội Mũ đỏ) và nhớ giữ lại cuống vé. Đi bộ khoảng 7 phút (nếu hành lý bạn không quá lủng củng) sẽ đến được ga tàu điện ngầm gần nhất. Mua vé 3 tệ và lên tàu và có thể chọn nhà trọ theo những hướng dẫn của người có kinh nghiệm. Nên nhớ Bắc Kinh rất rộng và nhiều người, nếu đi tập thể cần chú ý kẻo lạc. Có một lần sang làm việc với giáo sư Nhan Bảo tại trường ĐH Bắc Kinh, dù biết tiếng tôi cũng phải mất hai lần mới tìm thấy nhà vì đường đi quá lằng nhằng, phần vì Bắc Kinh tuy là thủ đô nhưng hiện nay người ngoại tỉnh nhiều, cho nên họ dùng rất nhiều thổ ngữ khác nhau, việc giao dịch thậm chí còn khó khăn cả với những người Trung Quốc. Nói đến điều này là để cảnh báo các bạn chớ chủ quan nếu đã biết được chút ít tiếng phổ thông. Nếu có nghe nói tốt cả giáo trình cao cấp Kiều Lương cũng chưa ăn nhằm gì với thực tế. Có người mới học được xong giáo trình 301 do chủ quan đã bị lạc ở Di Hoà Viên đến tận nửa ngày. Đối với người Trung Quốc ở Bắc Kinh, cách nói uốn lưỡi là một sở thích nhưng lại là nỗi kinh hoàng đối với tất cả các người Trung Quốc tỉnh khác.
Khi ở bên đó tôi đã từng thuê phòng với giá 40 tệ một ngày trong 4 ngày tốn 160 tệ. Bạn lưu ý check out ra khỏi nhà trọ trước 12g trưa và chọn nơi gần các trạm tàu điện ngầm, vì đi tàu điện ngầm tiện lợi hơn đi xe bus. Loại phòng tôi thuê giống như kí túc xá,có khoảng 8 giường 2 tầng, máy lạnh, 3 nhà tắm, dùng Internet miễn phí trong 30 phút nhưng phải đăng kí từ hôm trước. Lại lưu ý là trong một nhà khách bao giờ cũng có hai loại phòng là A và B tuỳ theo số người và số tiền bỏ ra. Bạn nên tham khảo trước khi chọn. Bạn cũng có thể tham khảo các nhà trọ rẻ tiền ở trang www.hostelworld.com.
Những ngày tại Bắc Kinh bạn có thể đi tàu điện ngầm đến khu Vương Phủ Tỉnh mua sắm, đi tàu điện ngầm đến tham quan Tử Cấm Thành. Sau khi xếp hàng mua vé giá 70 tệ, bạn có thể tham quan thoải mái.Tử Cấm Thành đóng cửa khoảng 17g. Nếu có ghé qua các khu chợ nhỏ ở ngay các trạm tàu điện ngầm như chợ Tây Đơn bạn phải trả giá thật lực. Ở khu du lịch tại Bắc Kinh, giá tiền cao thấp có hai mùa tuỳ theo đúng tháng du lịch hay không. Vào những tháng du lịch, giá tiền đắt hơn khá nhiều, bạn nên cẩn thận.
Bạn cũng có thể đi tàu điện ngầm với loại vé 5-6 tệ ra ngoại thành bắt xe bus (giá 5 tệ) thăm Cung Điện Mùa Hè tức Di Hoà Viên. Bạn đừng mua loại vé 50 tệ vào được 5 cửa vì Cung Điện Mùa Hè cực kì rộng lớn, chỉ nên mua vé 30 tệ, nếu còn đủ sức bạn hãy mua tiếp vé vào từng cổng tham quan và đừng quên lên thuyền đi quanh Hồ Tây với giá 8 tệ. Hãy cẩn thận vì tất cả các địa điểm tham quan ở Bắc Kinh đều vào một cửa và ra một cửa, thế cho nên đường đi sẽ là đi thẳng và không quay đầu lại. Nếu đi theo đoàn phải nắm vững điều này kẻo lạc.
Các buổi chiều còn lại bạn có thể tham quan các thắng cảnh khác hoặc đi mua sắm. Nếu được, bạn có thể la cà ở các hang quán lề đường để ăn món mỳ truyền thống làm tay giá chỉ 5 tệ, ăn cơm no nê ở các quán ăn nhỏ với giá chỉ khoảng 7 tệ hoặc loại sữa chua truyền thống giá 4 tệ. Cũng đừng quên mua chai trà xanh hay đỏ giá chỉ 3 tệ mà bạn thấy hầu như mọi người Bắc Kinh đều cầm trong tay (Người Trung Quốc không thích uống chung, nhất là sau dịch cúm H5N1, tốt nhất là bạn nên có chai nước của riêng mình).
Đối với bạn ưa lang thang uống rượu đêm thì tôi mách bạn món Lẩu dê có thể tìm thấy nhiều ở Bắc Kinh, rất bổ, rất vào và đồng thời rất rẻ vì thịt dê ở Trung Quốc thường được chiết khấu từ 6-10%. Một điều nữa muốn nhắc bạn là các cửa hàng ăn Trung Quốc rất ghét ai tự mang đồ uống vào. Để lựa chọn loại Rượu bổ phù hợp với Lẩu dê bạn nên chọn loại Trung Quốc Kình tửu (Zhongguo jin’r jiu) là ngon hơn cả. Cũng có thể chọn loại bia Yên Kinh là vừa ngon và hợp lý. Lẩu dê có nhiều món, bạn có thể gọi xương, nướng hay Lẩu nước trong hay đục, nhưng có một món đó là Dương Bảo (Yang bảo) tức “Hộp số của dê” là món các quí ông hay dùng tại Việt Nam. Có lần gọi món này, cô gái phục vụ người Cam Túc má đỏ như quả Bồ Quân cứ bụm miệng cười mãi.
Buổi tối ở Bắc kinh có hai nơi những người mới sang du lịch cấm kị đừng mò tới, đó là những quán Bar, nhất là nhà hàng Vodka Mạc Tư Khoa và khu đèn đỏ tức là những nhà hàng Karaoke có tiếp viên. Giá cả ở những nơi này rất đắt và khắc nghiệt, có người VN sang vì thiếu tiền lại có thái độ không đúng mực đã phải mặc quần đùi cởi trần đi về khách sạn.
Đấy là những cái bên ngoài, còn ở trong nhà trọ bạn nên nhớ là phải cẩn thận với những tiếng gõ cửa ban đêm vì đây chính là tiếng các tiếp viên gạ gẫm mại dâm. Bạn cũng đừng bấm điều khiển vô tuyến lung tung vì có thể bấm nhầm vào chương trình phim tươi mát mà thường phải trả rất nhiều tiền. Lại nữa, hãy giữ sao cho đúng cốt cách của một người khách du lịch sang thăm nước bạn. tuyệt đối không ăn cắp bất cứ thứ gì, một là sẽ phải trả thêm tiền đối với những đồ không tính theo gói thuê phòng như viên tránh thai, bao cao su.v.v…
Ngày cuối ở Bắc Kinh bạn đến ga để mua vé về VN hoặc bạn chọn vé giá 283 tệ để đến Thượng Hải trong 13g .Từ Thượng Hải mua tiếp vé tàu giá chỉ 30 tệ và cứ 3g lại có tàu đến Hàng Châu chỉ trong 2g.
Như vậy cả chuyến đi ở Bắc Kinh theo kiểu này chỉ mất 4 triệu cho phí đi lại, chi phí riêng chỉ khoảng 320 ngàn cho tiền ở, 300 ngàn cho tiền vé vào các khu tham quan và có gần 400 ngàn cho thưởng thức ẩm thực. Về Nam Ninh, lúc này bạn mới nên mua quà kỷ niệm bởi cái gì cũng có lại rất rẻ và không nặng nề.
Nếu có thể bạn nên ngủ lại thành phố nhỏ bé này một đêm để được thưởng thức món nướng đêm nơi đây, một món ăn rất phổ biến vào ban đêm ở Nam Ninh.
Trên đây là một số kinh nghiệm “Đi bụi” cơ bản ở Trung Quốc. Tuy những kiến thức này còn rất sơ sài nhưng người viết bài này chỉ mong muốn qua đây đóng góp một lượng kiến thức nho nhỏ cho những người bạn Tứ Hải yêu du lịch.
Nguyễn Hạnh ( Kỉ niệm Trung Hoa)
Nếu bạn bị lạc ở thành phố Bắc Kinh, hãy liên lạc ngay đến địa chỉ sau:
Guang Hua Lu.
No.32, Beijing. 100600
Tel: 65 321 155-65 321 125; Fax: 65 325 720.
CHIẾC CẦU ĐÁ LÀNG NÔM
Làng Nôm và chiếc cầu đá
Thôn Văn Ổ và thôn Lộng Thượng xã Đại Đồng huyện Văn Lâm là nơi phát xuất làng nghề đúc đồng có truyền thống lâu đời đã được đi vào trong câu ca dao:
“Đồng nát thì về Cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha”
Cầu Nôm ở Làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, là chiếc cầu đá lâu đời. Chiếc cầu này được ghép từ nhiều phiến đá. Những phiến đá được các nghệ nhân thời xưa đục đẽo rất công phu. Chân cầu cũng là những cột đá hình trụ, trải qua thời gian đã bị xói mòn, trở nên rêu phong, cổ kính. Những phiến đá ở mép cầu được chạm trổ hoa văn hình mây, một họa tiết thường được trang trí trong kiến trúc cổ.
Trước đây, khi nhắc đến Làng Nôm, người ta mường tượng ra nơi đây là một làng có nghề đúc.
“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng,
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu.
Tỉnh Thanh cũng dọn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò.
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái bình làm gạo giã giò gói nem.
Ninh bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Cầu Nôm đúc nồi.
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè.”
Làng Nôm là nơi chuyên thu gom đồng phế liệu. Từ đồng phế liệu, dân làng đem đúc thành chuông, đỉnh, hạc…chủ yếu là đồ thờ. Sản phẩm của Làng Nôm được tiêu thụ nhiều nhất ở các đại lý tại Hà Nội. Cầu Nôm chính là một hiện hữu tô điểm cho quê hương nơi đây.
Nguyễn Hạnh(Kỷ niệm về thăm Làng Nôm)
Thôn Văn Ổ và thôn Lộng Thượng xã Đại Đồng huyện Văn Lâm là nơi phát xuất làng nghề đúc đồng có truyền thống lâu đời đã được đi vào trong câu ca dao:
“Đồng nát thì về Cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha”
Cầu Nôm ở Làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, là chiếc cầu đá lâu đời. Chiếc cầu này được ghép từ nhiều phiến đá. Những phiến đá được các nghệ nhân thời xưa đục đẽo rất công phu. Chân cầu cũng là những cột đá hình trụ, trải qua thời gian đã bị xói mòn, trở nên rêu phong, cổ kính. Những phiến đá ở mép cầu được chạm trổ hoa văn hình mây, một họa tiết thường được trang trí trong kiến trúc cổ.
Trước đây, khi nhắc đến Làng Nôm, người ta mường tượng ra nơi đây là một làng có nghề đúc.
“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng,
Ước gì anh lấy được nàng
Hà Nội, Nam Định dọn đàng đưa dâu.
Tỉnh Thanh cũng dọn trầu cau
Nghệ An thời phải thui trâu mổ bò.
Hưng Yên quạt nước hỏa lò
Thái bình làm gạo giã giò gói nem.
Ninh bình trải chiếu bưng mâm
Hải Dương vót đũa, Cầu Nôm đúc nồi.
Sơn Tây gánh đá nung vôi
Bắc Cạn thời phải thổi xôi nấu chè.”
Làng Nôm là nơi chuyên thu gom đồng phế liệu. Từ đồng phế liệu, dân làng đem đúc thành chuông, đỉnh, hạc…chủ yếu là đồ thờ. Sản phẩm của Làng Nôm được tiêu thụ nhiều nhất ở các đại lý tại Hà Nội. Cầu Nôm chính là một hiện hữu tô điểm cho quê hương nơi đây.
Nguyễn Hạnh(Kỷ niệm về thăm Làng Nôm)
ĐÌNH NỘI CHÂU
Đình làng Nội Châu
Gia đình chúng tôi cư trú tại phố Cửa Bắc, ngay trong ngõ chùa Phổ Quang Am Tự, những ngày lễ tết, việc cúng giỗ, tôi hay vào trong chùa thắp hương, thăm dõi phong quang. Kể từ ngày quán rượu Tứ Hải chuyển về ngõ 124 nghách 55 Đường Âu Cơ,Tứ Liên, Tây Hồ- Hà Nội thì những ngày lễ hội tôi thường vào đình Nội Châu vãn cảnh.
Theo các cụ kể lại thì ngôi đình này được tọa lạc ở vị trí hiện nay vào khoảng thời gian năm Ất Dậu (1705) và theo một người em tôi đọc lại văn bia thì đình đã được trùng tu năm Nhâm Ngọ (1942).
Tôi đã bỏ công tìm hiểu và biết rằng Tứ Hải nằm trên đất Tứ Tổng xưa, thờ các vị Thành Hoàng là ba anh em cùng sinh ra vào giờ Tý ngày 28 tháng 6 năm Mậu Dần, trong một gia đình thuộc dòng Nguyễn Huy ở trong Đồng Lục phủ Khoái Châu-Đạo Sơn Nam, nay là huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chính danh từ Trang Xuyên Bảo thời Lý và Tam Bảo Châu thời nhà Trần là nơi các Ngài đã được nuôi dưỡng và trưởng thành.
Theo sách cổ các Ngài thuộc trong tám vị Nhân Thần bộ thứ hai của chi Thuỷ Trấn, có công lớn trong công cuộc Phá Tống bình Chiêm, giữ yên cho bờ cõi Đại Việt.
Sau khi hiển Thánh, các ngài được tôn làm Thành Hoàng làng và được các vương triều cấp sắc, phong tặng tước hiệu. Điều này thể hiện qua 23 đạo sắc phong từ thời Vĩnh Thịnh (1705) đến thời Khải Định (1920) đang được lưu giữ tại đình.
Các ngài gồm:
Đức Thánh Cả ( Húy Nguyễn Huy Bảo) tức Đương Cảnh Thành Hoàng Bảo Trung Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương.
Đức Thánh Hai ( Húy Nguyễn Huy Mỹ) tức Đương Cảnh Thành Hoàng Minh Khiết Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương.
Hai Đức Ông cùng hoá ngày 12 tháng 10 âm lịch.
Đức Thánh Bà ( Húy Nguyễn Thị Phương) tức Ý Hạnh Phu Nhân Tôn Công Chúa Thượng Đẳng Phúc Thần. Bà hoá ngày 16 tháng 3 âm lịch.
Vào những ngày hóa của các Ngài, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm để tưởng nhớ đến công đức của những vị anh hùng đã hy sinh cho đất nước.
Vùng đất Tứ Liên với dòng sông Hồng hiền hòa, ngôi chùa Vạn Ngọc, Đình Nội Châu đã đem lại nét thanh bình, cho ánh ban mai thấm đẫm tiếng chuông báo sáng trầm tư của bình minh lại về trên mái rạ, cho không gian Tứ Hải như sâu hơn, thân thương trong kí ức của tôi những ngày sinh sống tại nơi đây.
Đào Lệ Chung
Gia đình chúng tôi cư trú tại phố Cửa Bắc, ngay trong ngõ chùa Phổ Quang Am Tự, những ngày lễ tết, việc cúng giỗ, tôi hay vào trong chùa thắp hương, thăm dõi phong quang. Kể từ ngày quán rượu Tứ Hải chuyển về ngõ 124 nghách 55 Đường Âu Cơ,Tứ Liên, Tây Hồ- Hà Nội thì những ngày lễ hội tôi thường vào đình Nội Châu vãn cảnh.
Theo các cụ kể lại thì ngôi đình này được tọa lạc ở vị trí hiện nay vào khoảng thời gian năm Ất Dậu (1705) và theo một người em tôi đọc lại văn bia thì đình đã được trùng tu năm Nhâm Ngọ (1942).
Tôi đã bỏ công tìm hiểu và biết rằng Tứ Hải nằm trên đất Tứ Tổng xưa, thờ các vị Thành Hoàng là ba anh em cùng sinh ra vào giờ Tý ngày 28 tháng 6 năm Mậu Dần, trong một gia đình thuộc dòng Nguyễn Huy ở trong Đồng Lục phủ Khoái Châu-Đạo Sơn Nam, nay là huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Chính danh từ Trang Xuyên Bảo thời Lý và Tam Bảo Châu thời nhà Trần là nơi các Ngài đã được nuôi dưỡng và trưởng thành.
Theo sách cổ các Ngài thuộc trong tám vị Nhân Thần bộ thứ hai của chi Thuỷ Trấn, có công lớn trong công cuộc Phá Tống bình Chiêm, giữ yên cho bờ cõi Đại Việt.
Sau khi hiển Thánh, các ngài được tôn làm Thành Hoàng làng và được các vương triều cấp sắc, phong tặng tước hiệu. Điều này thể hiện qua 23 đạo sắc phong từ thời Vĩnh Thịnh (1705) đến thời Khải Định (1920) đang được lưu giữ tại đình.
Các ngài gồm:
Đức Thánh Cả ( Húy Nguyễn Huy Bảo) tức Đương Cảnh Thành Hoàng Bảo Trung Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương.
Đức Thánh Hai ( Húy Nguyễn Huy Mỹ) tức Đương Cảnh Thành Hoàng Minh Khiết Thượng Đẳng Phúc Thần Đại Vương.
Hai Đức Ông cùng hoá ngày 12 tháng 10 âm lịch.
Đức Thánh Bà ( Húy Nguyễn Thị Phương) tức Ý Hạnh Phu Nhân Tôn Công Chúa Thượng Đẳng Phúc Thần. Bà hoá ngày 16 tháng 3 âm lịch.
Vào những ngày hóa của các Ngài, nhân dân địa phương tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm để tưởng nhớ đến công đức của những vị anh hùng đã hy sinh cho đất nước.
Vùng đất Tứ Liên với dòng sông Hồng hiền hòa, ngôi chùa Vạn Ngọc, Đình Nội Châu đã đem lại nét thanh bình, cho ánh ban mai thấm đẫm tiếng chuông báo sáng trầm tư của bình minh lại về trên mái rạ, cho không gian Tứ Hải như sâu hơn, thân thương trong kí ức của tôi những ngày sinh sống tại nơi đây.
Đào Lệ Chung
THAO THỨC THỜI MÌ TÔM
Thao thức thời Mì Tôm
Những ngày sống trong đói rét, có lẽ người ta mới lại nghĩ đến những gì bình dị đã nuôi sống con người trong thời thơ ấu.
Là một người con sinh ra sau chiến tranh, không biết có thể nói là tiếc hay không khi tôi không còn được biết đến những món bất hủ chỉ được nghe kể lại như Mì Không Người Lái, Bột Mì Hấp, Nắp Hầm…của thế hệ đi trước, thế nhưng phải nói cái dư vị của một thời khó khăn mà đất nước tất yếu phải trải qua vẫn ít nhiều trôi qua một phần trong ký ức.
Thuở ấy cứ sáng sáng, lũ trẻ chúng tôi cứ ước ao một chiếc bánh mì Paté thật lớn, thế nhưng món đó chẳng có đâu, thay vào đó là củ Khoai, cơm nguội, sang lắm là bát cơm rang có mỡ không hành, thêm ít thuốc độc: Mì Chính.
Hồi nhỏ tuổi, cứ mỗi lần đi nhổ răng ở bệnh viện Việt Đức về, món tẩm bổ sang nhất mà cả nhà dành dụm cho tôi là một bát cháo hành tía tô có đập vào quả trứng gà thơm phức.
Lúc ấy thú thực trẻ con chúng tôi nói dại chỉ ước được ốm, bởi ốm đồng nghĩa là được ăn Phở, ôi những bát Phở lúc đó sao mà ngon đến thế!? Tôi nhớ hồi ấy mỗi lần đi qua quán Phở Sinh trước cổng triển lãm Giảng Võ là mắt cứ dán vào cái nồi đang bốc hơi nóng nghi ngút. Hình như mùi thơm của Nhục Quế, Thảo Quả, tương ớt… đã ngấm cả vào những chiếc cột bằng tre nơi đây, cứ dậy lên một mùi thơm kỳ lạ!
Cái thú được húp xì xụp một bát nước canh nóng vào những ngày giá lạnh khiến người ta nghĩ ra đủ thứ để mô phỏng món Phở. Hồi nhà nước bán kèm bột mì vào phần lương thực, bọn trẻ con mê lắm món mì bằng bột cán mỏng nấu với nước dùng nêm muối, sang lắm là một chút mì chính, nước mắm, nếu có thêm vài lá hành thì thật đúng là không còn gì bằng. Mỗi chủ nhật, cả nhà quây quần bên chiếc nồi húp soàn soạt xem phim Cảnh sát lấy vợ của Pháp, ai nấy vui như vào hội.
Còn nhớ có lần đọc một cuốn truyện cách mạng, đến đoạn anh nuôi khéo tay nấu một nồi mì sợi nạo từ một thân cây đu đủ với nước mắm kem giúp cho một đơn vị bộ đội đang trong tình trạng cạn kiệt lương thực được một bữa no nê trước giờ vào trận đánh, tôi liền gấp sách lại, nằng nặc đòi mẹ cho đi ăn Phở bằng được.
Tháng năm qua lại, thị trường trên những chặng đường đổi mới dần xuất hiện những mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Sự có mặt của mì tôm, những gói mì ăn sẵn là tất yếu, phù hợp với nhịp độ làm việc và nếp sinh hoạt của từng gia đình. Lúc đầu, loại mì tôm được biết đến là mì Hai Tôm gói giấy màu vỏ bao xi măng in chữ đỏ. Loại mì này một thời được bọn trẻ con coi như một thứ sơn hào hải vị. Mỗi tối học bài xong, trước khi đi ngủ thật hạnh phúc khi được một bát mì nóng hổi thơm đượm. Ai cũng kháo nhau rằng đây là thứ mì hảo hạng có sợi tẩm bơ, thế mới có thể có mùi vị đặc biệt đến thế!!! Mà nghĩ cũng đúng thật! Mỗi lần ăn mì, từng đứa trẻ con thi nhau xì xụp húp cho đến cạn kiệt bát nước, húp trong hân hoan và tiếc nuối khi thứ chất lỏng ấy hết quá nhanh bởi sự háu ăn quá đỗi, khi dư vị thần tiên dường như vẫn chào mời trong cái cổ họng đang ngừng lại trách cái mồm sao không tiếp tục xuỳn xuỵt nữa. Không hiểu sao lúc đó bát mì tôm không người lái giản dị như thế ăn vào lại ngon đến vậy. Người thì bảo là thời ấy ăn uống còn khó khăn, ăn một gói mì tôm 81g lạ miệng trong sự thòm thèm thì cảm thấy ngon là điều tất yếu, người lại bảo mì tôm thời ấy sợi dai hơn, tẩm nhiều bơ hơn. Riêng tôi thì cảm thấy hình như bát mì Hai Tôm thuở nhỏ ăn thơm và ngon hơn thật, hơn cả mì Kim Chi và một loạt loại mì có cái tên rất kêu được tẩm ướp đủ thứ gia vị mới lạ. Đến bây giờ, nhiều người vẫn quả quyết rằng ăn mì tôm phải ăn mì gói giấy màu vỏ bao xi măng mới là sành điệu bởi loại mì này có mùi vị chân thực, đặc trưng, không bị pha phách, tẩm ướp những gia vị có mùi khác lạ.
Tôi có ông anh rể nấu ăn rất khéo, lần đầu đến nhà cưa chị tôi cứ khẳng định mãi mì Hai Tôm gói giấy mà nấu với rau cải là hợp nhất. Thứ rau cải mát he đắng quyện với mùi bơ là một sự kết hợp khá hoàn hảo mà sau này một thời sinh viên đã giúp những chàng thanh niên nghèo lang thang qua được bữa đói ban trưa một cách ấn tượng, ngon lành.
Cùng thời với mì Hai Tôm còn có mì Hai Cua loại gói trắng chữ xanh cũng rất thơm ngon. Thế nhưng không hiểu sao thứ mì đó chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở Hà Nội, nghe nói ở Hải Phòng, Sài Gòn lại có bán rất nhiều. Kí ức một đứa trẻ con thời ấy như gắn liền hẳn với tên tuổi hai loại mì này với những liên tưởng về một cuộc sống ấm no, thanh bình có ông bà, bố mẹ, bạn bè, những tiếng trống khai trường, những trò chơi hào hứng và những buổi tối quây quần hứa hẹn một bát mì ngon lành trước khi trôi vào một giấc mơ đầy hương vị thơ ngây.
Từ những sản phẩm trình làng tiêu biểu như thế, mì tôm đã dần đi vào đời sống mọi người một cách tự nhiên, âm thầm nhưng thực ra thật sôi động. Quả thật có lẽ không chỉ đối với tôi, mà nhiều người cũng phải thừa nhận rằng hình như một đó là loại mì thật có nhiều duyên nợ.
Đầu tiên đó là thức ăn “Cứu đói cấp thời” của những sinh viên xa nhà trong những ngày hết tiền, trong những đêm học thi vất vả. Có những anh chàng để dành dụm tiền chiêu đãi bạn gái một bữa kem Tràng Tiền mà phải chấp nhận một tháng ăn mì tôm. Sau này nghe họ tâm sự cứ mỗi lần nhìn thấy những gói mì trên giá sách là đã thấy phát sốt, tôi cứ buồn cười mãi! Tình yêu gớm ghê như vậy đấy!
Mì tôm còn là thứ có trong hành trang của một số công nhân viên chức ăn uống kiêng khem, tiết kiệm. Có những giáo viên chỉ cần một gói mì tôm suông buổi trưa là đã đủ. Suốt cả học kỳ đều như vắt chanh, họ kiên trì ăn mì tôm như đó là một nhiệm vụ trong cuộc đời phải làm.
Hình như cuộc đời tôi có duyên số được quen với nhiều bạn vong niên là những người đàn ông muộn màng và độc thân. Và chính trong lúc giao tiếp với họ, tôi cứ nghĩ rằng phải chăng mì tôm được sinh ra cho những con người này!? Một gói mì tôm úp nước sôi được pha chế rất nhanh và đơn giản. Cứ mỗi lần nhậu say xỉn cho vơi nỗi sầu với chúng bạn về thì đây là thứ chống đói rẻ, dễ ăn và tiện lợi nhất cho những anh chàng phòng không lười biếng. Nhìn họ lọ mọ đun ấm nước, tay run run pha mì tôm một mình trong đêm đông giá buốt, liệu có cô nàng nào chạnh lòng không??? Tôi thì thấy tội cho họ lắm!
Bên Trung Quốc, gói mì tôm to hơn hẳn mình. Những tháng đầu sang công tác bên ấy. Thú thực tôi nhiều lúc rất ngại đi ra ngoài ăn. Thế là chỉ một gói mì ăn liền 100g là tôi đã có thể đánh một giấc đến sáng bảnh…Biết tôi hay ăn mì như thế, một giáo sư trường đại học Bắc Kinh mua hẳn cho tôi mỗi lần bốn năm thùng mì Khang Sư Phụ, một loại mì ăn liền ngon có tiếng. Tôi cảm động lắm, ăn mì mà biết ơn người thầy giáo ngoại quốc, nhớ đến quê nhà, nhớ những kỷ niệm gắn liền với gói mì Hai Tôm.
Giờ đây, vào siêu thị, người tiêu dùng như lạc vào một rừng thương hiệu mì với đủ các tên gọi từ Hảo Hảo, Mì Gà Nấm, Lẩu Thái, Mì Bò Hành Răm…thơm ngon tinh khiết, bao bì sặc sỡ đủ màu. Có mấy ai mỗi lần bê bát mì nấu tim gan bồ dục hay tái bò…còn nhớ đến những gói mì Hai Tôm, Hai Cua gói giấy giản dị úp suông, những gói mì đã gắn liền với một thời quá xa ấy không?
Nguyễn Hạnh
Những ngày sống trong đói rét, có lẽ người ta mới lại nghĩ đến những gì bình dị đã nuôi sống con người trong thời thơ ấu.
Là một người con sinh ra sau chiến tranh, không biết có thể nói là tiếc hay không khi tôi không còn được biết đến những món bất hủ chỉ được nghe kể lại như Mì Không Người Lái, Bột Mì Hấp, Nắp Hầm…của thế hệ đi trước, thế nhưng phải nói cái dư vị của một thời khó khăn mà đất nước tất yếu phải trải qua vẫn ít nhiều trôi qua một phần trong ký ức.
Thuở ấy cứ sáng sáng, lũ trẻ chúng tôi cứ ước ao một chiếc bánh mì Paté thật lớn, thế nhưng món đó chẳng có đâu, thay vào đó là củ Khoai, cơm nguội, sang lắm là bát cơm rang có mỡ không hành, thêm ít thuốc độc: Mì Chính.
Hồi nhỏ tuổi, cứ mỗi lần đi nhổ răng ở bệnh viện Việt Đức về, món tẩm bổ sang nhất mà cả nhà dành dụm cho tôi là một bát cháo hành tía tô có đập vào quả trứng gà thơm phức.
Lúc ấy thú thực trẻ con chúng tôi nói dại chỉ ước được ốm, bởi ốm đồng nghĩa là được ăn Phở, ôi những bát Phở lúc đó sao mà ngon đến thế!? Tôi nhớ hồi ấy mỗi lần đi qua quán Phở Sinh trước cổng triển lãm Giảng Võ là mắt cứ dán vào cái nồi đang bốc hơi nóng nghi ngút. Hình như mùi thơm của Nhục Quế, Thảo Quả, tương ớt… đã ngấm cả vào những chiếc cột bằng tre nơi đây, cứ dậy lên một mùi thơm kỳ lạ!
Cái thú được húp xì xụp một bát nước canh nóng vào những ngày giá lạnh khiến người ta nghĩ ra đủ thứ để mô phỏng món Phở. Hồi nhà nước bán kèm bột mì vào phần lương thực, bọn trẻ con mê lắm món mì bằng bột cán mỏng nấu với nước dùng nêm muối, sang lắm là một chút mì chính, nước mắm, nếu có thêm vài lá hành thì thật đúng là không còn gì bằng. Mỗi chủ nhật, cả nhà quây quần bên chiếc nồi húp soàn soạt xem phim Cảnh sát lấy vợ của Pháp, ai nấy vui như vào hội.
Còn nhớ có lần đọc một cuốn truyện cách mạng, đến đoạn anh nuôi khéo tay nấu một nồi mì sợi nạo từ một thân cây đu đủ với nước mắm kem giúp cho một đơn vị bộ đội đang trong tình trạng cạn kiệt lương thực được một bữa no nê trước giờ vào trận đánh, tôi liền gấp sách lại, nằng nặc đòi mẹ cho đi ăn Phở bằng được.
Tháng năm qua lại, thị trường trên những chặng đường đổi mới dần xuất hiện những mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Sự có mặt của mì tôm, những gói mì ăn sẵn là tất yếu, phù hợp với nhịp độ làm việc và nếp sinh hoạt của từng gia đình. Lúc đầu, loại mì tôm được biết đến là mì Hai Tôm gói giấy màu vỏ bao xi măng in chữ đỏ. Loại mì này một thời được bọn trẻ con coi như một thứ sơn hào hải vị. Mỗi tối học bài xong, trước khi đi ngủ thật hạnh phúc khi được một bát mì nóng hổi thơm đượm. Ai cũng kháo nhau rằng đây là thứ mì hảo hạng có sợi tẩm bơ, thế mới có thể có mùi vị đặc biệt đến thế!!! Mà nghĩ cũng đúng thật! Mỗi lần ăn mì, từng đứa trẻ con thi nhau xì xụp húp cho đến cạn kiệt bát nước, húp trong hân hoan và tiếc nuối khi thứ chất lỏng ấy hết quá nhanh bởi sự háu ăn quá đỗi, khi dư vị thần tiên dường như vẫn chào mời trong cái cổ họng đang ngừng lại trách cái mồm sao không tiếp tục xuỳn xuỵt nữa. Không hiểu sao lúc đó bát mì tôm không người lái giản dị như thế ăn vào lại ngon đến vậy. Người thì bảo là thời ấy ăn uống còn khó khăn, ăn một gói mì tôm 81g lạ miệng trong sự thòm thèm thì cảm thấy ngon là điều tất yếu, người lại bảo mì tôm thời ấy sợi dai hơn, tẩm nhiều bơ hơn. Riêng tôi thì cảm thấy hình như bát mì Hai Tôm thuở nhỏ ăn thơm và ngon hơn thật, hơn cả mì Kim Chi và một loạt loại mì có cái tên rất kêu được tẩm ướp đủ thứ gia vị mới lạ. Đến bây giờ, nhiều người vẫn quả quyết rằng ăn mì tôm phải ăn mì gói giấy màu vỏ bao xi măng mới là sành điệu bởi loại mì này có mùi vị chân thực, đặc trưng, không bị pha phách, tẩm ướp những gia vị có mùi khác lạ.
Tôi có ông anh rể nấu ăn rất khéo, lần đầu đến nhà cưa chị tôi cứ khẳng định mãi mì Hai Tôm gói giấy mà nấu với rau cải là hợp nhất. Thứ rau cải mát he đắng quyện với mùi bơ là một sự kết hợp khá hoàn hảo mà sau này một thời sinh viên đã giúp những chàng thanh niên nghèo lang thang qua được bữa đói ban trưa một cách ấn tượng, ngon lành.
Cùng thời với mì Hai Tôm còn có mì Hai Cua loại gói trắng chữ xanh cũng rất thơm ngon. Thế nhưng không hiểu sao thứ mì đó chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở Hà Nội, nghe nói ở Hải Phòng, Sài Gòn lại có bán rất nhiều. Kí ức một đứa trẻ con thời ấy như gắn liền hẳn với tên tuổi hai loại mì này với những liên tưởng về một cuộc sống ấm no, thanh bình có ông bà, bố mẹ, bạn bè, những tiếng trống khai trường, những trò chơi hào hứng và những buổi tối quây quần hứa hẹn một bát mì ngon lành trước khi trôi vào một giấc mơ đầy hương vị thơ ngây.
Từ những sản phẩm trình làng tiêu biểu như thế, mì tôm đã dần đi vào đời sống mọi người một cách tự nhiên, âm thầm nhưng thực ra thật sôi động. Quả thật có lẽ không chỉ đối với tôi, mà nhiều người cũng phải thừa nhận rằng hình như một đó là loại mì thật có nhiều duyên nợ.
Đầu tiên đó là thức ăn “Cứu đói cấp thời” của những sinh viên xa nhà trong những ngày hết tiền, trong những đêm học thi vất vả. Có những anh chàng để dành dụm tiền chiêu đãi bạn gái một bữa kem Tràng Tiền mà phải chấp nhận một tháng ăn mì tôm. Sau này nghe họ tâm sự cứ mỗi lần nhìn thấy những gói mì trên giá sách là đã thấy phát sốt, tôi cứ buồn cười mãi! Tình yêu gớm ghê như vậy đấy!
Mì tôm còn là thứ có trong hành trang của một số công nhân viên chức ăn uống kiêng khem, tiết kiệm. Có những giáo viên chỉ cần một gói mì tôm suông buổi trưa là đã đủ. Suốt cả học kỳ đều như vắt chanh, họ kiên trì ăn mì tôm như đó là một nhiệm vụ trong cuộc đời phải làm.
Hình như cuộc đời tôi có duyên số được quen với nhiều bạn vong niên là những người đàn ông muộn màng và độc thân. Và chính trong lúc giao tiếp với họ, tôi cứ nghĩ rằng phải chăng mì tôm được sinh ra cho những con người này!? Một gói mì tôm úp nước sôi được pha chế rất nhanh và đơn giản. Cứ mỗi lần nhậu say xỉn cho vơi nỗi sầu với chúng bạn về thì đây là thứ chống đói rẻ, dễ ăn và tiện lợi nhất cho những anh chàng phòng không lười biếng. Nhìn họ lọ mọ đun ấm nước, tay run run pha mì tôm một mình trong đêm đông giá buốt, liệu có cô nàng nào chạnh lòng không??? Tôi thì thấy tội cho họ lắm!
Bên Trung Quốc, gói mì tôm to hơn hẳn mình. Những tháng đầu sang công tác bên ấy. Thú thực tôi nhiều lúc rất ngại đi ra ngoài ăn. Thế là chỉ một gói mì ăn liền 100g là tôi đã có thể đánh một giấc đến sáng bảnh…Biết tôi hay ăn mì như thế, một giáo sư trường đại học Bắc Kinh mua hẳn cho tôi mỗi lần bốn năm thùng mì Khang Sư Phụ, một loại mì ăn liền ngon có tiếng. Tôi cảm động lắm, ăn mì mà biết ơn người thầy giáo ngoại quốc, nhớ đến quê nhà, nhớ những kỷ niệm gắn liền với gói mì Hai Tôm.
Giờ đây, vào siêu thị, người tiêu dùng như lạc vào một rừng thương hiệu mì với đủ các tên gọi từ Hảo Hảo, Mì Gà Nấm, Lẩu Thái, Mì Bò Hành Răm…thơm ngon tinh khiết, bao bì sặc sỡ đủ màu. Có mấy ai mỗi lần bê bát mì nấu tim gan bồ dục hay tái bò…còn nhớ đến những gói mì Hai Tôm, Hai Cua gói giấy giản dị úp suông, những gói mì đã gắn liền với một thời quá xa ấy không?
Nguyễn Hạnh
KARATE
Karate
Nếu như một người võ sĩ đạo chết đi, anh ta sẽ ước như anh đào nở trên đỉnh núi, nơi ấy tuyết phủ bốn mùa, trắng như màu áo Karate-Không thủ đạo. Những chú bé Chaien, Nobita của đất nước mặt trời mọc ngày nay chỉ mong một ngày nào đó mèo máy Doremon biến họ trở thành những thanh niên cường tráng, biết thưởng thức Trà Đạo (Chanoyu) và múa kiếm như những mạc phủ mà thôi! Karate quả không thể rời giấc mơ của họ.
Trong tiếng Nhật, Karate có nghĩa là nghệ thuật chiến đấu tay không, có nguồn gốc từ môn Thiếu Lâm Trung Hoa và Taekwondo của Hàn Quốc ngày nay.Trong môn võ này, người ta tự vệ bằng nắm tay, cùi chỏ và chân, thường không sử dụng binh khí. Với môn võ này việc tập trung tinh thần cao độ là rất quan trọng vì có nó thì đòn thế mới đạt được hiệu quả tối đa.
Trong Karate, một người mới học bao giờ cũng phải làm quen với hai khái niệm rất quen thuộc. Thứ nhất là Kata, tức là cách thao dượt quyền phổ, trong đó người ta biểu diễn các kĩ năng của mình trước một ban giám khảo. Những tiêu chuẩn để đánh giá Kata là sự chính xác, kỹ thuật và tư thế. Loại thứ hai là Kumite tức là phần giao đấu giữa hai đối thủ.
Binh khí của Karate khá phong phú nhưng trong đó nổi tiếng nhất là Nunchaku hay Côn nhị khúc. Khán giả màn bạc những năm 70 đã từng phải khóc thét trước những pha biểu diễn loại vũ khí thô sơ này của Brucelee (Lý Tiểu Long, 李小龍)- ông tổ của Triệt Quyền Đạo Jeetkwondo (截拳道), người cũng đã xuất thân từ Karate và Vịnh Xuân (Yongchunwupai,詠春武派).
Bắt đầu xuất hiện vào thế kỉ 14, đến ngày nay thực sự môn võ Karate- Không thủ đạo(空手道) đã trở thành một phương tiện để những người dân vùng đảo nơi đây sử dụng nhằm mục đích rèn luyện thể chất và tinh thần.
Nguyễn Hạnh (Theo tư liệu võ thuật Nhật Bản).
Nếu như một người võ sĩ đạo chết đi, anh ta sẽ ước như anh đào nở trên đỉnh núi, nơi ấy tuyết phủ bốn mùa, trắng như màu áo Karate-Không thủ đạo. Những chú bé Chaien, Nobita của đất nước mặt trời mọc ngày nay chỉ mong một ngày nào đó mèo máy Doremon biến họ trở thành những thanh niên cường tráng, biết thưởng thức Trà Đạo (Chanoyu) và múa kiếm như những mạc phủ mà thôi! Karate quả không thể rời giấc mơ của họ.
Trong tiếng Nhật, Karate có nghĩa là nghệ thuật chiến đấu tay không, có nguồn gốc từ môn Thiếu Lâm Trung Hoa và Taekwondo của Hàn Quốc ngày nay.Trong môn võ này, người ta tự vệ bằng nắm tay, cùi chỏ và chân, thường không sử dụng binh khí. Với môn võ này việc tập trung tinh thần cao độ là rất quan trọng vì có nó thì đòn thế mới đạt được hiệu quả tối đa.
Trong Karate, một người mới học bao giờ cũng phải làm quen với hai khái niệm rất quen thuộc. Thứ nhất là Kata, tức là cách thao dượt quyền phổ, trong đó người ta biểu diễn các kĩ năng của mình trước một ban giám khảo. Những tiêu chuẩn để đánh giá Kata là sự chính xác, kỹ thuật và tư thế. Loại thứ hai là Kumite tức là phần giao đấu giữa hai đối thủ.
Binh khí của Karate khá phong phú nhưng trong đó nổi tiếng nhất là Nunchaku hay Côn nhị khúc. Khán giả màn bạc những năm 70 đã từng phải khóc thét trước những pha biểu diễn loại vũ khí thô sơ này của Brucelee (Lý Tiểu Long, 李小龍)- ông tổ của Triệt Quyền Đạo Jeetkwondo (截拳道), người cũng đã xuất thân từ Karate và Vịnh Xuân (Yongchunwupai,詠春武派).
Bắt đầu xuất hiện vào thế kỉ 14, đến ngày nay thực sự môn võ Karate- Không thủ đạo(空手道) đã trở thành một phương tiện để những người dân vùng đảo nơi đây sử dụng nhằm mục đích rèn luyện thể chất và tinh thần.
Nguyễn Hạnh (Theo tư liệu võ thuật Nhật Bản).
VÕ THUẬT NGƯỜI CẢNH PHA
Võ thuật của người Cảnh Pha - Đao thuật kiến trường.
Cảnh Pha là một dân tộc thiểu số cổ Trung Quốc. Qua vài lần thiên di, không ngừng đấu tranh với tự nhiên, dã thú và kẻ địch, dần dần phát sinh ra lối võ thuật của riêng mình. Võ thuật của họ thường là những động tác chém thú, chặt cây mở đường. Sau khi đã an cư lạc nghiệp, họ đã học tập thêm sở trường võ thuật của các tộc người Thái, Đức Ngang, tự làm phong phú nghệ thuật chiến đấu của dòng tộc. Từ đó sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, làm bạn với thú rừng, Dao dài đã trở thành thứ vũ khí chủ yếu và nghệ thuật sử dụng nó đã trở thành lối võ thuật của họ.
Nghệ thuật đánh dao của người Cảnh Pha chia ra làm các cách đánh đơn đao, song đao. Đơn đao chủ yếu có ba bài quyền. Bài thứ nhất là ba thế đứng hình chữ Nhất (一), còn gọi là Tam bộ khảm báo(三步砍豹, ba bước chém báo). Bước thứ nhất là động tác tiến lên phía trước nghênh địch, chém thẳng vào đối thủ, bản chất là một bước tiến công. Sau đó hai bước lui về sau thăm dò, cộng lại là ba bước. Rõ ràng thế võ này là một đúc rút thực tế trong quá trình đấu tranh cùng thú dữ của dân tộc Cảnh Pha. Bài thứ hai là hệ thống năm bước chân theo đồ hình chữ ngũ (〥). Hai chân đứng ở hai điểm khởi phát, là thế chuẩn bị cho một thế tiến công khi một chân tiến lên phía trước để rồi sau đó hai chân nhảy song song lên cho một thế tiếp theo. Lúc tiến công, những động tác chém, đâm kết hợp tức là sau khi chém thì lập tức trở đốc đao đâm vào chỗ hiểm của đối thủ. Bài thứ ba là hệ thống bảy bước chân, thích dụng cho việc phòng thủ trái phải khi tấn công. Cách đánh song đao có các hệ thống chín, mười một, mười hai, mười chín bước chân đều từ do các lối vũ đạo “Thập tự khiêu”十字跳, “Bát tự khiêu hoa” 八字挑花 của dân tộc Cảnh Pha cổ.
Võ thuật của dân tộc Cảnh Pha mang đậm sắc thái văn hoá của dân tộc mình. Điều đó có thể thấy qua việc tuy đòn thế có đủ tính chất phòng thủ, nhưng chủ yếu lại là tiến công, thể hiện rõ ràng tính cách bạo liệt, anh dũng ngoan cường của dân tộc này.
Các Mác đã nói : “ Đấu tranh là hạnh phúc”. Người Cảnh Pha đâu biết câu nói ấy mà lại rất yêu quí hoà bình, nồng nhiệt với cuộc sống, từ tâm thức đó trên cơ sở võ thuật của mình sáng tạo ra nghành Hoa đao 花刀, đây thực sự là một vũ đạo nhẹ nhàng, nhanh nhẹn uyển chuyển, có khả năng biến hoá. Người Cảnh Pha qua cuộc sống lao động, đấu tranh và lễ hội đã thổi hồn vào đường đao, biến chúng trở thành phương tiện biểu hiện tư tưởng tình cảm của mình. Vào rằm tháng giêng hàng năm, những con dân của dân tộc Cảnh Pha lại tụ tập cùng nhau trong ngày hội ca múa, xếp hàng thành rồng rắn, đàn ông hoặc song đao, trường đao nhảy múa, hoặc một tay cầm đao, tay kia đỡ sống đao, thế trường đao theo điệu múa khi lên khi xuống. Khi một bô lão qua đời, đàn ông tộc Cảnh Pha dựng trường đao đứng thẳng, loan đao nhiều vòng trong điệu múa đưa linh.
Trường đao hay dao dài không chỉ là một thứ binh khí thuần tuý mà còn là một thứ đạo cụ, trở thành nghành võ thuật đặc sắc của người Cảnh Pha.
Nguyễn Hạnh
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số).
Cảnh Pha là một dân tộc thiểu số cổ Trung Quốc. Qua vài lần thiên di, không ngừng đấu tranh với tự nhiên, dã thú và kẻ địch, dần dần phát sinh ra lối võ thuật của riêng mình. Võ thuật của họ thường là những động tác chém thú, chặt cây mở đường. Sau khi đã an cư lạc nghiệp, họ đã học tập thêm sở trường võ thuật của các tộc người Thái, Đức Ngang, tự làm phong phú nghệ thuật chiến đấu của dòng tộc. Từ đó sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, làm bạn với thú rừng, Dao dài đã trở thành thứ vũ khí chủ yếu và nghệ thuật sử dụng nó đã trở thành lối võ thuật của họ.
Nghệ thuật đánh dao của người Cảnh Pha chia ra làm các cách đánh đơn đao, song đao. Đơn đao chủ yếu có ba bài quyền. Bài thứ nhất là ba thế đứng hình chữ Nhất (一), còn gọi là Tam bộ khảm báo(三步砍豹, ba bước chém báo). Bước thứ nhất là động tác tiến lên phía trước nghênh địch, chém thẳng vào đối thủ, bản chất là một bước tiến công. Sau đó hai bước lui về sau thăm dò, cộng lại là ba bước. Rõ ràng thế võ này là một đúc rút thực tế trong quá trình đấu tranh cùng thú dữ của dân tộc Cảnh Pha. Bài thứ hai là hệ thống năm bước chân theo đồ hình chữ ngũ (〥). Hai chân đứng ở hai điểm khởi phát, là thế chuẩn bị cho một thế tiến công khi một chân tiến lên phía trước để rồi sau đó hai chân nhảy song song lên cho một thế tiếp theo. Lúc tiến công, những động tác chém, đâm kết hợp tức là sau khi chém thì lập tức trở đốc đao đâm vào chỗ hiểm của đối thủ. Bài thứ ba là hệ thống bảy bước chân, thích dụng cho việc phòng thủ trái phải khi tấn công. Cách đánh song đao có các hệ thống chín, mười một, mười hai, mười chín bước chân đều từ do các lối vũ đạo “Thập tự khiêu”十字跳, “Bát tự khiêu hoa” 八字挑花 của dân tộc Cảnh Pha cổ.
Võ thuật của dân tộc Cảnh Pha mang đậm sắc thái văn hoá của dân tộc mình. Điều đó có thể thấy qua việc tuy đòn thế có đủ tính chất phòng thủ, nhưng chủ yếu lại là tiến công, thể hiện rõ ràng tính cách bạo liệt, anh dũng ngoan cường của dân tộc này.
Các Mác đã nói : “ Đấu tranh là hạnh phúc”. Người Cảnh Pha đâu biết câu nói ấy mà lại rất yêu quí hoà bình, nồng nhiệt với cuộc sống, từ tâm thức đó trên cơ sở võ thuật của mình sáng tạo ra nghành Hoa đao 花刀, đây thực sự là một vũ đạo nhẹ nhàng, nhanh nhẹn uyển chuyển, có khả năng biến hoá. Người Cảnh Pha qua cuộc sống lao động, đấu tranh và lễ hội đã thổi hồn vào đường đao, biến chúng trở thành phương tiện biểu hiện tư tưởng tình cảm của mình. Vào rằm tháng giêng hàng năm, những con dân của dân tộc Cảnh Pha lại tụ tập cùng nhau trong ngày hội ca múa, xếp hàng thành rồng rắn, đàn ông hoặc song đao, trường đao nhảy múa, hoặc một tay cầm đao, tay kia đỡ sống đao, thế trường đao theo điệu múa khi lên khi xuống. Khi một bô lão qua đời, đàn ông tộc Cảnh Pha dựng trường đao đứng thẳng, loan đao nhiều vòng trong điệu múa đưa linh.
Trường đao hay dao dài không chỉ là một thứ binh khí thuần tuý mà còn là một thứ đạo cụ, trở thành nghành võ thuật đặc sắc của người Cảnh Pha.
Nguyễn Hạnh
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số).
VÕ THUẬT DÂN TỘC DI
Võ thuật của dân tộc Di.
Là một trong những dân tộc cần cù dũng cảm và lâu đời nhất tại Vân Nam, những người con của dân tộc Di rất yêu thích vận động thể dục.
Theo truyền lại thì võ thuật của dân tộc Di được truyền vào ồ ạt vào những năm Đạo Quang đời nhà Thanh và từng phát triển mạnh mẽ. Ở đây mỗi khi gặp việc hiếu hỉ lễ tết, người Di thường dùng võ thuật như là một phương tiện để vui mừng hay đuổi tà tránh quỉ. Lễ hội đốt đuốc là một ngày lễ truyền thống của dân tộc Di tổ chức vào 2 ngày 24, 25 tháng 6 theo lịch cổ chính là một dịp để người Di tiến hành nghi thức biểu diễn võ thuật thật long trọng. Trong buổi lễ này, dẫn đầu đoàn võ thuật là đám rước Sư tử, theo sau là những chàng trai biểu diễn các loại vũ khí khác nhau. Theo quan niệm của dân tộc Di, Sư tử biểu trưng sức mạnh và lòng dũng cảm khi dẫn đường có thể trấn ma trị quỉ, đem lại hạnh phúc bình an. Có hai khái niệm trong võ thuật của dân tộc Di là Quyết Đả tức như Tán Đả (Song đấu) và Sáo tử cũng như Tháo lộ (Quyền phổ) vậy.
Tất cả các động tác võ thuật của dân tộc Di thường được thao diễn trong một đường tròn bán kính 2m. Những động tác này thường có độ cong ít và là những bước nhảy ngắn có tính vũ đạo, thông thường là phương cách vừa nhảy vừa tiến công và phòng thủ, lúc diễn tập có thanh la, trống và kèn Sô na đánh lên làm hiệu lệnh. Trong võ thuật của dân tộc Di, binh khí tương đối phong phú gồm dao găm, đơn đao, song đao, đại đao, câu liêm, kiếm, chuỳ xích, dây xích, lưu đà, côn, liên giáp, cổ cán, đinh ba, thiết xỉ, tam tiêm soa và trường thương… Người Di thường có tập quán học võ theo kiểu gia truyền. Hầu hết trong các trại đều có các quyền sư của bản tộc. Nghe nói trước ngày giải phóng (Trung Quốc), thôn Cao Bình thuộc huyện Nga Sơn có lão võ sư Phổ Triều Thanh học võ từ nhỏ, công phu phi phàm, có thể thi triển những cú đá bay cao quá đầu người. Có một lần luyện công, ông từ dưới đất nhảy lên đá chạm trần nhà, nhè nhẹ đáp xuống huých nhẹ người vợ ở bên, ngồi xuống chiếc ghế mà bà đang ngồi. Những truyền nhân cao thủ của ông có Bá Dục Tài, Bá Dục Đức, Bá Ứng Xương và Bá Ứng Minh…
Trịnh Vân Hải (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Tứ Hải, chủ quán rượu Tứ Hải ngõ 124 ngách 55, Âu Cơ, Tứ Liên, Tây Hồ, Hà Nội,ĐT: 0904321966).
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số )
Là một trong những dân tộc cần cù dũng cảm và lâu đời nhất tại Vân Nam, những người con của dân tộc Di rất yêu thích vận động thể dục.
Theo truyền lại thì võ thuật của dân tộc Di được truyền vào ồ ạt vào những năm Đạo Quang đời nhà Thanh và từng phát triển mạnh mẽ. Ở đây mỗi khi gặp việc hiếu hỉ lễ tết, người Di thường dùng võ thuật như là một phương tiện để vui mừng hay đuổi tà tránh quỉ. Lễ hội đốt đuốc là một ngày lễ truyền thống của dân tộc Di tổ chức vào 2 ngày 24, 25 tháng 6 theo lịch cổ chính là một dịp để người Di tiến hành nghi thức biểu diễn võ thuật thật long trọng. Trong buổi lễ này, dẫn đầu đoàn võ thuật là đám rước Sư tử, theo sau là những chàng trai biểu diễn các loại vũ khí khác nhau. Theo quan niệm của dân tộc Di, Sư tử biểu trưng sức mạnh và lòng dũng cảm khi dẫn đường có thể trấn ma trị quỉ, đem lại hạnh phúc bình an. Có hai khái niệm trong võ thuật của dân tộc Di là Quyết Đả tức như Tán Đả (Song đấu) và Sáo tử cũng như Tháo lộ (Quyền phổ) vậy.
Tất cả các động tác võ thuật của dân tộc Di thường được thao diễn trong một đường tròn bán kính 2m. Những động tác này thường có độ cong ít và là những bước nhảy ngắn có tính vũ đạo, thông thường là phương cách vừa nhảy vừa tiến công và phòng thủ, lúc diễn tập có thanh la, trống và kèn Sô na đánh lên làm hiệu lệnh. Trong võ thuật của dân tộc Di, binh khí tương đối phong phú gồm dao găm, đơn đao, song đao, đại đao, câu liêm, kiếm, chuỳ xích, dây xích, lưu đà, côn, liên giáp, cổ cán, đinh ba, thiết xỉ, tam tiêm soa và trường thương… Người Di thường có tập quán học võ theo kiểu gia truyền. Hầu hết trong các trại đều có các quyền sư của bản tộc. Nghe nói trước ngày giải phóng (Trung Quốc), thôn Cao Bình thuộc huyện Nga Sơn có lão võ sư Phổ Triều Thanh học võ từ nhỏ, công phu phi phàm, có thể thi triển những cú đá bay cao quá đầu người. Có một lần luyện công, ông từ dưới đất nhảy lên đá chạm trần nhà, nhè nhẹ đáp xuống huých nhẹ người vợ ở bên, ngồi xuống chiếc ghế mà bà đang ngồi. Những truyền nhân cao thủ của ông có Bá Dục Tài, Bá Dục Đức, Bá Ứng Xương và Bá Ứng Minh…
Trịnh Vân Hải (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Tứ Hải, chủ quán rượu Tứ Hải ngõ 124 ngách 55, Âu Cơ, Tứ Liên, Tây Hồ, Hà Nội,ĐT: 0904321966).
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số )
VÕ THUẬT KHƯƠNG TẠNG
Nóc nhà thế giới và nền võ thuật Khương Tạng.
Có một tộc người du mục sinh sống tại nơi được mệnh danh là nóc nhà thế giới , đó chính là người Tạng, những đứa con trên cao nguyên. Cao nguyên Thanh Tạng, xứ sở của những con người thần kì cũng như mảnh đất và nền văn hoá nơi đây đã dung dưỡng ra họ. Tất cả những điều ấy đã sinh ra một thứ võ thuật mà ai cũng phải tấm tắc khen ngợi. Từ thời Tần Hán xa xưa, những người Khương sinh sống trên cao nguyên Thanh Tạng, qua quá trình săn bắt và đấu tranh, dần dần sản sinh ra nghành quyền phổ đặc thù của dân du mục- Khương thuật.
Năm 112 trước công nguyên, Các tộc Hung Nô liên minh với người Khương tấn công vào Lệnh Cư Trại, Hán Vũ đế sai Lí Tức đem 10 vạn tinh binh đàn áp người Khương, khiến họ phải chạy về vùng phía Tây hồ Thanh Hải. Nhà Hán nhân đó lập ra Tây Bình đình thay cho Tây Ninh đình ( Đơn vị hành chính theo qui chế nhà Hán, 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 làng), thay Lạc Đô bằng Phá Khương huyện, Hoàng Nguyên bằng Giám Khương huyện, lập ra cái gọi là “Hộ Khương hiệu uý” cố thủ biên trại. Trong vòng những năm công nguyên 136-165, chiến tranh giữa nhà Hán và người Khương nổ ra liên miên, kéo dài đến đến 10 năm, và chính thời gian ấy, Khương thuật cũng theo đó mà phát triển.
Vào đời Tấn, vùng đất trên bị tộc Tiên Ti Đột Dục Hồn (鮮卑吐谷渾, âm cổ, không đọc là Thổ Cốc Hồn) chiếm giữ, ưa sử dụng Khương thuật, hình thành nghệ thuật chiến đấu phù hợp với dân du mục. Đương thời chính quyền này đã ban bố sắc lệnh “Kị Xạ” không những khuyến cáo việc dùng vũ lực, luyện tập kĩ năng cưỡi ngựa bắn cung mà còn khuyến khích sáng tạo những phương pháp nhằm phát triển võ công. Sách “Thao Châu Vệ” ghi: “ Người Đột Dục Hồn, tính cách hung hãn, uống sữa thay cơm, yêu thích đua ngựa, sinh nhai bằng săn bắn.” Trong xã hội cổ đại đầy tính đấu tranh giai cấp và xung đột sắc tộc, võ thuật và quân sự luôn có một quan hệ mật thiết. Quan hệ này cũng tồn tại giữa võ thuật và tôn giáo sơ khai, âm nhạc và vũ đạo khi sức sản xuất phát triển tạo ra những điều kiện vật chất tất yếu. Qua đụng độ giữa các bộ lạc, sản sinh ra các phép cưỡi ngựa, bắn cung, quăng lưới, nhảy ngựa…các thuật giao đấu binh khí đến khinh công, đối luyện.v.v…
Sau thời Đường ngũ đại, vương quốc Thổ Phồn trở nên hưng thịnh, thôn tính nước Đột Dục Hồn, khuếch trương quân sự, từng thống trị miền Tây Bắc Trung Quốc, thông gia với Đại Đường. Văn Thành công chúa sang đất Tạng, đem nhiều võ sĩ tuỳ tòng, tạo điều kiện cho việc phát triển võ thuật của dân tộc Tạng. Theo nhu cầu, những người dân ở đây cũng đã nồng nhiệt tiếp thu Khương thuật, lấy ưu điểm kết hợp với quyền phổ thô bạo dũng mãnh bản địa, phát triển thành thứ võ thuật mang đậm tính dân tộc du mục của người Tạng nơi đây. Tiếng Tây Tạng gọi võ thuật là “Quyền ba”, cũng gọi là “Tắc Lâu”. Trong cung đình Tây Tạng, tại các nghi lễ hội hè, người ta không chỉ tổ chức biểu diễn ca múa, mà còn có tiết mục võ sĩ giác đấu. Theo bộ sách kinh điển tiếng Phạn “Nhu Nãi Nạp Oa” có ghi :
“ Trong Trát Long có Mỹ công ba và Long công ba. Mỹ công ba tức là phép luyện hoả công, lúc luyện cởi bỏ quần áo, luyện khí đan điền. Môn công phu này khi luyện thành, cơ thể phát sáng, mùa đông không biết lạnh, đốt không chảy, dìm không ngạt, đao thương không đâm thủng vào được. Long công ba lại là thuật hít thở, ngồi trên bồ đoàn miệng niệm thần chú, khoả thân nhảy nhót, chân đấm tay đá đến khi nào mồ hôi như tắm mới thôi. Lúc luyện thành công, thân thể nhẹ nhàng như chim én, có thể độn thổ ẩn thân”. Lễ “Vọng Quả Tiết” của dân tộc Tạng là một lễ hội có lịch sử lâu đời, theo sách ghi khi nhạn bay về phương Nam tránh rét là lúc dân chúng mừng hội được mùa, người ta lập võ đài thi đấu võ thuật, ai thắng cuộc thì được thưởng. Theo sách “Tây Tạng chí” chép rằng: “Vào rằm tháng riêng, sau khi người Tạng cử hành nghi lễ tôn giáo thì có tổ chức thi đua ngựa, đấu vật và biểu diễn võ thuật…, lại đeo mặt nạ nhảy múa mừng việc tốt lành. “Cốc tràng tuần hành”, “Thiên hạn cầu vũ” hay trong lễ tế “Nga Bác”, trên thảo nguyên bao la, người người nghe tiếng tù và kéo đến, sau lễ tế là những cuộc đua ngựa, bắn tên, đấu võ, đánh vật diễn ra…Với việc thay thổi “Khương địch” bằng đánh trống cổ vũ, vua Thổ Phồn còn ra lệnh các võ sĩ chế tác những quả cầu hay tạ đá để tập luyện võ công. Đương thời Tây Tạng xuất hiện rất nhiều Câu tùng ba tức bảo tiêu, họ có tài giấu đao, cung, súng bắn đá, lao dây…
Ngày nay, trong ngôn ngữ của người Tạng vùng Thanh Tạng, có rất nhiều danh từ riêng có liên quan đến khí giới như Cổ lãng (giấu ngựa), Đả thập cát hậu ( Roi ngựa), Lạt chích (Đoản kiếm), Đa thập cát hậu (Dây thừng), Tắc tùng mộc đông (Tam soa), Đa hi hầu (Chuỳ dây), Đông (Mâu), Đại y (Cung tên), Ai thập kháp (Pháo đá), Đa nhật kết (Chày đuổi ma).v.v…
Như vậy qua đây chúng ta thấy lịch sử võ thuật Khương- Tạng có một truyền thống lâu đời nhưng ngặt một nỗi là do khuyết thiếu văn tự ghi chép cho nên hiểu biết về sự thay đổi phát triển còn hạn chế, những đội ngũ nghiên cứu như thế cần nỗ lực hơn nữa để ngày càng đi sâu hơn vào lãnh vực này.
Nguyễn Hạnh (Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số).
Có một tộc người du mục sinh sống tại nơi được mệnh danh là nóc nhà thế giới , đó chính là người Tạng, những đứa con trên cao nguyên. Cao nguyên Thanh Tạng, xứ sở của những con người thần kì cũng như mảnh đất và nền văn hoá nơi đây đã dung dưỡng ra họ. Tất cả những điều ấy đã sinh ra một thứ võ thuật mà ai cũng phải tấm tắc khen ngợi. Từ thời Tần Hán xa xưa, những người Khương sinh sống trên cao nguyên Thanh Tạng, qua quá trình săn bắt và đấu tranh, dần dần sản sinh ra nghành quyền phổ đặc thù của dân du mục- Khương thuật.
Năm 112 trước công nguyên, Các tộc Hung Nô liên minh với người Khương tấn công vào Lệnh Cư Trại, Hán Vũ đế sai Lí Tức đem 10 vạn tinh binh đàn áp người Khương, khiến họ phải chạy về vùng phía Tây hồ Thanh Hải. Nhà Hán nhân đó lập ra Tây Bình đình thay cho Tây Ninh đình ( Đơn vị hành chính theo qui chế nhà Hán, 10 dặm là 1 đình, 10 đình là 1 làng), thay Lạc Đô bằng Phá Khương huyện, Hoàng Nguyên bằng Giám Khương huyện, lập ra cái gọi là “Hộ Khương hiệu uý” cố thủ biên trại. Trong vòng những năm công nguyên 136-165, chiến tranh giữa nhà Hán và người Khương nổ ra liên miên, kéo dài đến đến 10 năm, và chính thời gian ấy, Khương thuật cũng theo đó mà phát triển.
Vào đời Tấn, vùng đất trên bị tộc Tiên Ti Đột Dục Hồn (鮮卑吐谷渾, âm cổ, không đọc là Thổ Cốc Hồn) chiếm giữ, ưa sử dụng Khương thuật, hình thành nghệ thuật chiến đấu phù hợp với dân du mục. Đương thời chính quyền này đã ban bố sắc lệnh “Kị Xạ” không những khuyến cáo việc dùng vũ lực, luyện tập kĩ năng cưỡi ngựa bắn cung mà còn khuyến khích sáng tạo những phương pháp nhằm phát triển võ công. Sách “Thao Châu Vệ” ghi: “ Người Đột Dục Hồn, tính cách hung hãn, uống sữa thay cơm, yêu thích đua ngựa, sinh nhai bằng săn bắn.” Trong xã hội cổ đại đầy tính đấu tranh giai cấp và xung đột sắc tộc, võ thuật và quân sự luôn có một quan hệ mật thiết. Quan hệ này cũng tồn tại giữa võ thuật và tôn giáo sơ khai, âm nhạc và vũ đạo khi sức sản xuất phát triển tạo ra những điều kiện vật chất tất yếu. Qua đụng độ giữa các bộ lạc, sản sinh ra các phép cưỡi ngựa, bắn cung, quăng lưới, nhảy ngựa…các thuật giao đấu binh khí đến khinh công, đối luyện.v.v…
Sau thời Đường ngũ đại, vương quốc Thổ Phồn trở nên hưng thịnh, thôn tính nước Đột Dục Hồn, khuếch trương quân sự, từng thống trị miền Tây Bắc Trung Quốc, thông gia với Đại Đường. Văn Thành công chúa sang đất Tạng, đem nhiều võ sĩ tuỳ tòng, tạo điều kiện cho việc phát triển võ thuật của dân tộc Tạng. Theo nhu cầu, những người dân ở đây cũng đã nồng nhiệt tiếp thu Khương thuật, lấy ưu điểm kết hợp với quyền phổ thô bạo dũng mãnh bản địa, phát triển thành thứ võ thuật mang đậm tính dân tộc du mục của người Tạng nơi đây. Tiếng Tây Tạng gọi võ thuật là “Quyền ba”, cũng gọi là “Tắc Lâu”. Trong cung đình Tây Tạng, tại các nghi lễ hội hè, người ta không chỉ tổ chức biểu diễn ca múa, mà còn có tiết mục võ sĩ giác đấu. Theo bộ sách kinh điển tiếng Phạn “Nhu Nãi Nạp Oa” có ghi :
“ Trong Trát Long có Mỹ công ba và Long công ba. Mỹ công ba tức là phép luyện hoả công, lúc luyện cởi bỏ quần áo, luyện khí đan điền. Môn công phu này khi luyện thành, cơ thể phát sáng, mùa đông không biết lạnh, đốt không chảy, dìm không ngạt, đao thương không đâm thủng vào được. Long công ba lại là thuật hít thở, ngồi trên bồ đoàn miệng niệm thần chú, khoả thân nhảy nhót, chân đấm tay đá đến khi nào mồ hôi như tắm mới thôi. Lúc luyện thành công, thân thể nhẹ nhàng như chim én, có thể độn thổ ẩn thân”. Lễ “Vọng Quả Tiết” của dân tộc Tạng là một lễ hội có lịch sử lâu đời, theo sách ghi khi nhạn bay về phương Nam tránh rét là lúc dân chúng mừng hội được mùa, người ta lập võ đài thi đấu võ thuật, ai thắng cuộc thì được thưởng. Theo sách “Tây Tạng chí” chép rằng: “Vào rằm tháng riêng, sau khi người Tạng cử hành nghi lễ tôn giáo thì có tổ chức thi đua ngựa, đấu vật và biểu diễn võ thuật…, lại đeo mặt nạ nhảy múa mừng việc tốt lành. “Cốc tràng tuần hành”, “Thiên hạn cầu vũ” hay trong lễ tế “Nga Bác”, trên thảo nguyên bao la, người người nghe tiếng tù và kéo đến, sau lễ tế là những cuộc đua ngựa, bắn tên, đấu võ, đánh vật diễn ra…Với việc thay thổi “Khương địch” bằng đánh trống cổ vũ, vua Thổ Phồn còn ra lệnh các võ sĩ chế tác những quả cầu hay tạ đá để tập luyện võ công. Đương thời Tây Tạng xuất hiện rất nhiều Câu tùng ba tức bảo tiêu, họ có tài giấu đao, cung, súng bắn đá, lao dây…
Ngày nay, trong ngôn ngữ của người Tạng vùng Thanh Tạng, có rất nhiều danh từ riêng có liên quan đến khí giới như Cổ lãng (giấu ngựa), Đả thập cát hậu ( Roi ngựa), Lạt chích (Đoản kiếm), Đa thập cát hậu (Dây thừng), Tắc tùng mộc đông (Tam soa), Đa hi hầu (Chuỳ dây), Đông (Mâu), Đại y (Cung tên), Ai thập kháp (Pháo đá), Đa nhật kết (Chày đuổi ma).v.v…
Như vậy qua đây chúng ta thấy lịch sử võ thuật Khương- Tạng có một truyền thống lâu đời nhưng ngặt một nỗi là do khuyết thiếu văn tự ghi chép cho nên hiểu biết về sự thay đổi phát triển còn hạn chế, những đội ngũ nghiên cứu như thế cần nỗ lực hơn nữa để ngày càng đi sâu hơn vào lãnh vực này.
Nguyễn Hạnh (Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc, loạt bài về võ thuật các vùng dân tộc thiểu số).
VÕ THUẬT DÂN TỘC DAO
Võ thuật dân tộc Dao.
Trên một dải đất Hồ Nam Quế Lâm (湘桂), một địa khu đa sắc tộc, người Dao là một tộc người chiếm đa số.
Trước ngày giải phóng, đây là nơi ra vào của thổ phỉ cường đạo cướp của giết người. Để phòng thân, những người Dao đời đời truyền nhau luyện rèn võ thuật.
Đây cũng là nơi trốn tránh của những gia đình không chịu được thuế má hà khắc, trong số lưu lạc đó trà trộn vào những cao thủ võ nghệ mang theo nhiều môn công tới. Người Dao do đó đã chọn lọc ra những gì thực dụng, nghiên cứu hấp thu tinh hoa của các phái võ khác nhau, kết hợp với lối quyền thuật bản địa, hình thành những đòn thế dũng mãnh, thần tốc linh hoạt với tiếng hét phụ trợ tiêu biểu của dân tộc mình.
Quyền thuật dân tộc Dao ưa dùng bộ mã, lơi bộ, tấn chữ Đinh (丁字步), tiểu cung bộ(小弓步), rất ít dùng đại cung bộ(大弓步); Thủ pháp dùng nhiều phản quyền(反拳), âm chưởng(阴拳), đỉnh chửu(顶肘, cùi trỏ), hiếm khi dùng đòn đấm thẳng(直冲拳, Trực xung quyền), chân đá không quá eo lưng, hay di chuyển nhanh, bước nhảy ít, thích hợp với địa hình sơn cước. Võ thuật của dân tộc Dao không có những đòn thế dài. Điều này rất dễ hiểu vì khi đụng độ với đối phương trên triền núi hẹp, 3 thước đất là quá nhiều cho cuộc giao đấu của hai bên.
Đường quyền của người Dao ngắn nhỏ, tinh tế và dũng mãnh, một bài thường chỉ bao gồm mười mấy động tác nhưng vô cùng mạnh mẽ, chiêu thức đều ẩn chứa đủ mọi kĩ thuật công thủ phản biến. Chính vì đặc điểm đó mà chỉ trong một gian phòng có diện tích 10m là đã có thể thi triển công phu rồi. Khí giới chủ yếu của người Dao là côn Tề mi(齐眉棍), cũng có thể thay bằng đòn gánh. Ngoài ra còn có song đao, Hổ bà(虎钯) hay đinh ba…Trên phương diện chiến đấu, người Dao đề cao vai trò của khéo léo và tốc độ nhằm thủ thắng, thường là vừa di chuyển vừa ra đòn, luồn lách nhập nội, đánh vào chỗ hiểm, thậm chí điểm huyệt.
Võ thuật dân tộc Dao mang đầy đủ tính chất điển hình của lối đánh nhập nội, cống hiến tất cả tinh hoa cho những người yêu thích võ thuật.
Nguyễn Hạnh
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc)
Trên một dải đất Hồ Nam Quế Lâm (湘桂), một địa khu đa sắc tộc, người Dao là một tộc người chiếm đa số.
Trước ngày giải phóng, đây là nơi ra vào của thổ phỉ cường đạo cướp của giết người. Để phòng thân, những người Dao đời đời truyền nhau luyện rèn võ thuật.
Đây cũng là nơi trốn tránh của những gia đình không chịu được thuế má hà khắc, trong số lưu lạc đó trà trộn vào những cao thủ võ nghệ mang theo nhiều môn công tới. Người Dao do đó đã chọn lọc ra những gì thực dụng, nghiên cứu hấp thu tinh hoa của các phái võ khác nhau, kết hợp với lối quyền thuật bản địa, hình thành những đòn thế dũng mãnh, thần tốc linh hoạt với tiếng hét phụ trợ tiêu biểu của dân tộc mình.
Quyền thuật dân tộc Dao ưa dùng bộ mã, lơi bộ, tấn chữ Đinh (丁字步), tiểu cung bộ(小弓步), rất ít dùng đại cung bộ(大弓步); Thủ pháp dùng nhiều phản quyền(反拳), âm chưởng(阴拳), đỉnh chửu(顶肘, cùi trỏ), hiếm khi dùng đòn đấm thẳng(直冲拳, Trực xung quyền), chân đá không quá eo lưng, hay di chuyển nhanh, bước nhảy ít, thích hợp với địa hình sơn cước. Võ thuật của dân tộc Dao không có những đòn thế dài. Điều này rất dễ hiểu vì khi đụng độ với đối phương trên triền núi hẹp, 3 thước đất là quá nhiều cho cuộc giao đấu của hai bên.
Đường quyền của người Dao ngắn nhỏ, tinh tế và dũng mãnh, một bài thường chỉ bao gồm mười mấy động tác nhưng vô cùng mạnh mẽ, chiêu thức đều ẩn chứa đủ mọi kĩ thuật công thủ phản biến. Chính vì đặc điểm đó mà chỉ trong một gian phòng có diện tích 10m là đã có thể thi triển công phu rồi. Khí giới chủ yếu của người Dao là côn Tề mi(齐眉棍), cũng có thể thay bằng đòn gánh. Ngoài ra còn có song đao, Hổ bà(虎钯) hay đinh ba…Trên phương diện chiến đấu, người Dao đề cao vai trò của khéo léo và tốc độ nhằm thủ thắng, thường là vừa di chuyển vừa ra đòn, luồn lách nhập nội, đánh vào chỗ hiểm, thậm chí điểm huyệt.
Võ thuật dân tộc Dao mang đầy đủ tính chất điển hình của lối đánh nhập nội, cống hiến tất cả tinh hoa cho những người yêu thích võ thuật.
Nguyễn Hạnh
(Theo tư liệu võ thuật Trung Quốc)
SƯ PHỤ VƯƠNG HƯƠNG TRAI
Sư phụ Wang Xiang Zhai (1885-1963) và môn phái Hình Ý Quyền
Wang Xiang Zhai sinh năm 1885 tại Nguỵ Gia Trang- Hà Bắc, nơi ở của một quyền sư lừng lẫy thời ấy là GuoYun Shen.
Thuở thiếu thời
Cậu bé Vương đã đến với võ thuật nhằm cải thiện sức khoẻ của mình.Sau nhiều năm khổ luyện, ông đã được nhắc tới như là một võ sư Hình Ý Quyền, đệ tử của sư phụ Guo. Ông đã thu liễm và trưởng thành trên nền võ công của sư phụ mình.
Những bước phiêu du trên xứ sở Trung Hoa.
Sau khi sư phụ Guo qua đời, ông đã quyết định rời xa quê hương bản quán, tầm sư học đạo. Năm 1913, ông xin vào quân đội tại Bắc Kinh. Năm 1918, ông rời khỏi quân ngũ lúc 33 tuổi và tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Nơi đến đầu tiên của ông là chùa Thiếu Lâm, nơi được xem là trái tim và linh hồn của giới võ thuật. (Tâm Ý Môn), với những kĩ thuật tạo nên Hình Ý Quyền. Sau khi xuống núi , ông lại tiếp tục đi đến Hồ Bắc và Hồ Nam, và đặt chân đến địa hạt tỉnh Phúc Kiến.
Trong thời gian học môn Thiếu Lâm Bắc phái, ông Wang đã được truyền thụ bởi Fang Qia Zhuang, một bậc thầy về môn Tâm Ý Môn, người đã chỉ ra những hệ thống bài tập thực hành hữu hiệu. Người thầy thứ hai của ông là Jin Shao Feng, một quyền sư nổi tiếng. Ông đã học ở đây một thời gian và sau đó quay về Hồ Nam.
Trong thời gian lưu lạc tại Trường Sa, ông theo học sư phụ Xie Tie Fu (mệnh danh là Ông lớn), người đã cho ông những hiểu biết về Võ Đang quyền phổ,. Ông Wang đã từng thổ lộ rằng cách sử dụng tay của mình có ảnh hưởng nặng nề của sư phụ Guo và sư phụ Xie.
Trên quãng đường quay về phương Bắc của mình, sư phụ Wang qua Bắc kinh để thụ giáo với bậc thầy Thái Cực Quyền, một người nổi danh về Bát Quái Chưởng.
Sự hình thành môn Ý quyền.
Sau 10 năm phiêu bạt ấn chứng võ công, năm 1925,vào lúc 30 tuổi, ông lập võ đường tại Thượng Hải. Tuy dạy Hình ý quyền nhưng ông áp dụng nhiều kỹ thuật mới lạ, thái dụng từ kinh nghiệm cọ xát trên bước giang hồ. Điều ông luôn trăn trở là làm sao để học trò hiểu quyền pháp, chiêu thức phải xuất phát như một phản xạ tự nhiên. Điều này có nghĩa, người tập phải vận dụng ý chí dẫn dắt động tác, sức mạnh. Theo ông luyện võ không chỉ bằng tay, chân, hình thể mà còn ở trí tuệ, tâm thức mà ông gọi là “tâm pháp”. Một khi lĩnh hội được điều này, người luyện võ sẽ thoát khỏi giới hạn vật chất, sức mạnh cơ bắp. Ông cho học trò đấu luyện trong phòng tối để rèn cảm giác “niêm”; quyền cước như có tai, có mắt, phản ứng xuất thần. Để nhấn mạnh ý niệm “ý lực”, ông gọi phương pháp của mình là “ý quyền”.
Trong thập niên 40, nhiều cao thủ khắp Hoa lục đều trở thành Đại tướng dưới tay Vương sư phụ. Khâm phục nguyên lý cao siêu và thành tích bất bại của ông, người ta gọi Ý quyền là Đại thành quyền.
Có thể kết luận Hình Ý Quyền là một môn phái được sáng lập trên nền tảng võ thuật tông phái Hà Bắc Hình Ý Quyền, mang dáng dấp của nhiều môn võ khác. Môn này không có bài quyền, và rất chú trọng tới phần Ý hơn là phần Hình, nên đặc biệt luyện tập Trạm thung (môn sinh đứng bất động giữ một tư thế và hít thở).
Những đệ tử
Sư phụ Vương Hương Trai có rất nhiều đệ tử xuất sắc, trong đó có những người đến từ Thượng Hải, Thiên Tân, Hương Cảng và đặc biệt là một nhân vật đến từ Bắc Kinh là Yaozongxun (1917-1985), mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Trong quá trình thụ giáo võ công, Yaozongxun không những để ý đến thực hành mà còn quan tâm đến việc nghiên cứu lý luận võ thuật. Chính vì thế mà Yao đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, đóng góp cống hiến cho việc hoàn thiện Hình Ý Quyền.
Thực trạng của Hình Ý Quyền trong ngày nay.
Tại Bắc Kinh, việc truyền thụ môn võ này vẫn do hai con trai của sư phụ Yao là Yao Cheng Guang và Yao Cheng Rong đảm nhiệm. Ở miền Bắc Trung Hoa và Hương Cảng, công việc này giao cho con trai của sư phụ Han Xing Qiao là Han Jing Yu và Han Jing Shengles fils de Maître Han Xingqiao Han jingyu et Han Jingsheng. Như vậy môn Hình Ý Quyền thu nạp đệ tử và dạy chủ yếu nhờ vào công của hai nhánh võ đường này.
Ở Mỹ, Hình Ý Quyền đã có bước phát triển lớn do công lao của sư phụ Fong Ha, một nhánh của võ đường Han Xing Yuan. Tại Grande Bretagne, sư phụ Yu Yong Nian đã giới thiệu môn võ này với những kỹ thuật Trạm Thung.
Tại Ba Lan, một đệ tử của sư phụ của Yao Chengguang mở một võ đường tại phía Đông xứ này.
Tại Phần Lan, một học trò trẻ tuổi của Han Jing Yu đã phát triển môn võ này trên xứ sở Bắc Âu.
Tại Nhật Bản, Kenichi Sawai sáng lập môn Tai Ki Ken, một môn võ thuật dựa trên cơ sở Hình Ý Quyền.
Tại Pháp, môn Hình Ý Quyền được giới thiệu bởi Ilias Calimintzos, một học trò Tây Phương duy nhất của sư phụ Yao.
Ngoài ra còn có nhiều nhánh của Hình Ý Quyền trên khắp thế giới.
Những đặc điểm khác nhau giữa các nhánh môn phái đã được tạo ra bởi cách truyền thụ và sáng tạo của các thế hệ sư phụ Hình Ý Quyền. Ngày nay, khi nhắc tới Hình Ý Quyền truyền thống, người ta luôn nghĩ và nhắc tới hai dòng Yao Zongxun và Han XingQiao.
Bảy phương pháp rèn luyện Hình Ý Quyền
Có tất cả bảy phương pháp luyện tập Hình Ý Quyền:
1. "Trạm Trang".
2. "Niêm dính".
3. "Mộc Nhân”.
4. "Thôi Thủ".
5. "Tốc Độ".
6. "Linh Giác".
7. "Song Đấu".
Với 7 phương pháp này, các võ sư thế hệ sau sư phụ Vương đang áp dụng chúng vào những bài tập truyền thống tạo các võ đường Hình Ý Quyền trên khắp thế giới.
Nguyễn Hạnh (Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp)
Wang Xiang Zhai sinh năm 1885 tại Nguỵ Gia Trang- Hà Bắc, nơi ở của một quyền sư lừng lẫy thời ấy là GuoYun Shen.
Thuở thiếu thời
Cậu bé Vương đã đến với võ thuật nhằm cải thiện sức khoẻ của mình.Sau nhiều năm khổ luyện, ông đã được nhắc tới như là một võ sư Hình Ý Quyền, đệ tử của sư phụ Guo. Ông đã thu liễm và trưởng thành trên nền võ công của sư phụ mình.
Những bước phiêu du trên xứ sở Trung Hoa.
Sau khi sư phụ Guo qua đời, ông đã quyết định rời xa quê hương bản quán, tầm sư học đạo. Năm 1913, ông xin vào quân đội tại Bắc Kinh. Năm 1918, ông rời khỏi quân ngũ lúc 33 tuổi và tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Nơi đến đầu tiên của ông là chùa Thiếu Lâm, nơi được xem là trái tim và linh hồn của giới võ thuật. (Tâm Ý Môn), với những kĩ thuật tạo nên Hình Ý Quyền. Sau khi xuống núi , ông lại tiếp tục đi đến Hồ Bắc và Hồ Nam, và đặt chân đến địa hạt tỉnh Phúc Kiến.
Trong thời gian học môn Thiếu Lâm Bắc phái, ông Wang đã được truyền thụ bởi Fang Qia Zhuang, một bậc thầy về môn Tâm Ý Môn, người đã chỉ ra những hệ thống bài tập thực hành hữu hiệu. Người thầy thứ hai của ông là Jin Shao Feng, một quyền sư nổi tiếng. Ông đã học ở đây một thời gian và sau đó quay về Hồ Nam.
Trong thời gian lưu lạc tại Trường Sa, ông theo học sư phụ Xie Tie Fu (mệnh danh là Ông lớn), người đã cho ông những hiểu biết về Võ Đang quyền phổ,. Ông Wang đã từng thổ lộ rằng cách sử dụng tay của mình có ảnh hưởng nặng nề của sư phụ Guo và sư phụ Xie.
Trên quãng đường quay về phương Bắc của mình, sư phụ Wang qua Bắc kinh để thụ giáo với bậc thầy Thái Cực Quyền, một người nổi danh về Bát Quái Chưởng.
Sự hình thành môn Ý quyền.
Sau 10 năm phiêu bạt ấn chứng võ công, năm 1925,vào lúc 30 tuổi, ông lập võ đường tại Thượng Hải. Tuy dạy Hình ý quyền nhưng ông áp dụng nhiều kỹ thuật mới lạ, thái dụng từ kinh nghiệm cọ xát trên bước giang hồ. Điều ông luôn trăn trở là làm sao để học trò hiểu quyền pháp, chiêu thức phải xuất phát như một phản xạ tự nhiên. Điều này có nghĩa, người tập phải vận dụng ý chí dẫn dắt động tác, sức mạnh. Theo ông luyện võ không chỉ bằng tay, chân, hình thể mà còn ở trí tuệ, tâm thức mà ông gọi là “tâm pháp”. Một khi lĩnh hội được điều này, người luyện võ sẽ thoát khỏi giới hạn vật chất, sức mạnh cơ bắp. Ông cho học trò đấu luyện trong phòng tối để rèn cảm giác “niêm”; quyền cước như có tai, có mắt, phản ứng xuất thần. Để nhấn mạnh ý niệm “ý lực”, ông gọi phương pháp của mình là “ý quyền”.
Trong thập niên 40, nhiều cao thủ khắp Hoa lục đều trở thành Đại tướng dưới tay Vương sư phụ. Khâm phục nguyên lý cao siêu và thành tích bất bại của ông, người ta gọi Ý quyền là Đại thành quyền.
Có thể kết luận Hình Ý Quyền là một môn phái được sáng lập trên nền tảng võ thuật tông phái Hà Bắc Hình Ý Quyền, mang dáng dấp của nhiều môn võ khác. Môn này không có bài quyền, và rất chú trọng tới phần Ý hơn là phần Hình, nên đặc biệt luyện tập Trạm thung (môn sinh đứng bất động giữ một tư thế và hít thở).
Những đệ tử
Sư phụ Vương Hương Trai có rất nhiều đệ tử xuất sắc, trong đó có những người đến từ Thượng Hải, Thiên Tân, Hương Cảng và đặc biệt là một nhân vật đến từ Bắc Kinh là Yaozongxun (1917-1985), mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Trong quá trình thụ giáo võ công, Yaozongxun không những để ý đến thực hành mà còn quan tâm đến việc nghiên cứu lý luận võ thuật. Chính vì thế mà Yao đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, đóng góp cống hiến cho việc hoàn thiện Hình Ý Quyền.
Thực trạng của Hình Ý Quyền trong ngày nay.
Tại Bắc Kinh, việc truyền thụ môn võ này vẫn do hai con trai của sư phụ Yao là Yao Cheng Guang và Yao Cheng Rong đảm nhiệm. Ở miền Bắc Trung Hoa và Hương Cảng, công việc này giao cho con trai của sư phụ Han Xing Qiao là Han Jing Yu và Han Jing Shengles fils de Maître Han Xingqiao Han jingyu et Han Jingsheng. Như vậy môn Hình Ý Quyền thu nạp đệ tử và dạy chủ yếu nhờ vào công của hai nhánh võ đường này.
Ở Mỹ, Hình Ý Quyền đã có bước phát triển lớn do công lao của sư phụ Fong Ha, một nhánh của võ đường Han Xing Yuan. Tại Grande Bretagne, sư phụ Yu Yong Nian đã giới thiệu môn võ này với những kỹ thuật Trạm Thung.
Tại Ba Lan, một đệ tử của sư phụ của Yao Chengguang mở một võ đường tại phía Đông xứ này.
Tại Phần Lan, một học trò trẻ tuổi của Han Jing Yu đã phát triển môn võ này trên xứ sở Bắc Âu.
Tại Nhật Bản, Kenichi Sawai sáng lập môn Tai Ki Ken, một môn võ thuật dựa trên cơ sở Hình Ý Quyền.
Tại Pháp, môn Hình Ý Quyền được giới thiệu bởi Ilias Calimintzos, một học trò Tây Phương duy nhất của sư phụ Yao.
Ngoài ra còn có nhiều nhánh của Hình Ý Quyền trên khắp thế giới.
Những đặc điểm khác nhau giữa các nhánh môn phái đã được tạo ra bởi cách truyền thụ và sáng tạo của các thế hệ sư phụ Hình Ý Quyền. Ngày nay, khi nhắc tới Hình Ý Quyền truyền thống, người ta luôn nghĩ và nhắc tới hai dòng Yao Zongxun và Han XingQiao.
Bảy phương pháp rèn luyện Hình Ý Quyền
Có tất cả bảy phương pháp luyện tập Hình Ý Quyền:
1. "Trạm Trang".
2. "Niêm dính".
3. "Mộc Nhân”.
4. "Thôi Thủ".
5. "Tốc Độ".
6. "Linh Giác".
7. "Song Đấu".
Với 7 phương pháp này, các võ sư thế hệ sau sư phụ Vương đang áp dụng chúng vào những bài tập truyền thống tạo các võ đường Hình Ý Quyền trên khắp thế giới.
Nguyễn Hạnh (Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp)
Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khun
Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa vvNhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa vNhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, ThụNhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy tẩm ruợu, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa
MÉP NONG ĐÀO
Mép nong đào
Làng Trích Sài xưa tên miền hái củi. Chàng tiều phu nghèo gặp gỡ gái ươm dâu. Tương tư ấy ngàn năm còn đọng lại. Để một ban mai du đãng ngẩn ngơ nào...
Sáng bạch lộ rù rì người gánh hạt
Nhặt cần cù hoa cỏ mù sương
Bên hồ bạn đôi cúc gù thanh thản
Bước thong dong đếm yểu điệu trên đường
Truyền thuyết ấy là đây vùng hái củi
Quê hương giàu đất mẹ nuôi dâu
Em tha thướt từ ngàn xưa hiện lại
Sẽ nong nia e ấp dải lụa màu
Từ nâu thẳm ai là sâu là kén
Ướm tay hồng tíu tít sợi chỉ hoa
Anh từ đất từ mầm cây mọc lại
Nảy cho em cội ong bướm đậm đà
Thì thôi nhé xin chớ nê thành phố
Thân trai gày vẫn biết hẹn cầu ao
Em thôn nữ tay liềm yêu dấu lắm
Về theo anh cạp khéo mép nong đào.
Nguyễn Hạnh ( Kỷ niệm Trích Sài-Hồ Tây, vùng đất hái củi dệt lĩnh xưa)
Chú thích: Trích Sài ( Vùng đất hái củi ) là một trong những làng thuộc Kẻ Bưởi ở Hà Nội xưa, nơi ngày trước có hai làng nghề nổi tiếng là Làng Yên Thái ( Hồ Khẩu) làm giấy và Làng Trích Sài ( Bái Ân) làm nghề dệt lĩnh nổi tiếng.
Làng Trích Sài xưa tên miền hái củi. Chàng tiều phu nghèo gặp gỡ gái ươm dâu. Tương tư ấy ngàn năm còn đọng lại. Để một ban mai du đãng ngẩn ngơ nào...
Sáng bạch lộ rù rì người gánh hạt
Nhặt cần cù hoa cỏ mù sương
Bên hồ bạn đôi cúc gù thanh thản
Bước thong dong đếm yểu điệu trên đường
Truyền thuyết ấy là đây vùng hái củi
Quê hương giàu đất mẹ nuôi dâu
Em tha thướt từ ngàn xưa hiện lại
Sẽ nong nia e ấp dải lụa màu
Từ nâu thẳm ai là sâu là kén
Ướm tay hồng tíu tít sợi chỉ hoa
Anh từ đất từ mầm cây mọc lại
Nảy cho em cội ong bướm đậm đà
Thì thôi nhé xin chớ nê thành phố
Thân trai gày vẫn biết hẹn cầu ao
Em thôn nữ tay liềm yêu dấu lắm
Về theo anh cạp khéo mép nong đào.
Nguyễn Hạnh ( Kỷ niệm Trích Sài-Hồ Tây, vùng đất hái củi dệt lĩnh xưa)
Chú thích: Trích Sài ( Vùng đất hái củi ) là một trong những làng thuộc Kẻ Bưởi ở Hà Nội xưa, nơi ngày trước có hai làng nghề nổi tiếng là Làng Yên Thái ( Hồ Khẩu) làm giấy và Làng Trích Sài ( Bái Ân) làm nghề dệt lĩnh nổi tiếng.
THIẾU LÂM TỰ
Thiếu Lâm Tự
Chùa Thiếu Lâm (Hán ngữ: 少林寺; Phiên âm: Shàolínsì; Hán Việt: Thiếu Lâm Tự; dịch nghĩa: "chùa trong rừng gần đỉnh Thiếu Thất") là một ngôi chùa tại Trung Quốc, nổi tiếng từ lâu nhờ mối liên hệ với Phật giáo Trung Quốc và Võ thuật và có lẽ nó là một cơ sở Phật giáo nổi tiếng nhất đối với phương Tây. Chùa Thiếu Lâm với võ phái Thiếu Lâm được xem là nguồn gốc các phái võ Trung Quốc hiện nay.
Thiếu Lâm Tự (少林寺) có nghĩa là ngôi chùa trong rừng. Nơi đây đã từng có một con người: Bồ Đề Đạt Ma 菩提達魔, vị tổ thứ 28 của Thiền tông Quyên Độc 身毒, tức nước Ấn Độ cổ. Sau khi xuống núi, ngài đi thuyền cập bến Quảng Châu vào năm thứ bảy đời Lương Võ Đế 梁武帝 (520). Từ đây khởi đầu một dòng võ lừng danh thế giới.
Không được sự đồng cảm, Bồ Đề Đạt Ma bèn tạ từ vị vua nhà Lương rồi xuôi lên phía Bắc. Sách chép rằng: Ngài vượt sông Dương Tử bằng cọng lau, lúc đầu dừng chân ở Lạc Dương, sau cùng dừng chân tại Thiếu Lâm Tự và diện bích suốt chín năm thiền định.
Từ bậc khai sáng qua nhiều đời kế, Phật giáo Thiền tông , trở thành dòng suối chảy nhuần qua nền văn hóa Trung Hoa và châu Á. Bồ Đề Đạt Ma đã phát triển Thiền tông, nâng lên tầm võ thuật, võ học, võ đạo.
Ngày nay, thăm chùa Thiếu Lâm Tự rất dễ nhận ra dấu ấn của trang sử võ học vẻ vang suốt 1.500 năm. Phong thuỷ Thiếu Lâm Tự được dựng theo trục Tý Ngọ-Bắc Nam. Bên trên sơn môn lấp lánh bút tích của vị hoàng đế cũng là nhà thư pháp lỗi lạc Khang Hy đề hoành. Dọc theo lối đi từ sơn môn đếnThiên Vương điện là rừng bi kí, một kho tàng thư pháp quí giá của văn hoáTrung Hoa. Sau điện Thiên Vương là chính sảnh, nơi vừa được trùng tu. Tất cả thẫm đẫm màu sắc huyền hoặc mà thanh tịnh. Nó phản ánh không chỉ lịch sử ngôi chùa mà còn cả lịch sử Trung Hoa suốt hơn 1000 năm. Chuyện kể rằng Càn Long 乾隆, vị vua thượng võ đời Thanh, nhân đến thăm Thiếu Lâm Tự, nghe câu chuyện Đạt Ma “cửu niên diện bích” và Nhị Tổ Huệ Khả cầu đạo đã xúc động vô cùng. Suốt đêm ông thao thức, nằm nghe mưa rơi ngoài hiên, gió thì thầm trên ngọn cây tùng và suy nghĩ vẩn vơ về ý nghĩa kiếp người.
Phía đông chính sảnh là Kim Nạp Lạc, nơi đặt tượng thần Đại La, vị thần của môn phái Thiếu Lâm. Sau chính sảnh là Tàng Kinh các, nơi lưu giữ kinh sách, bảo kíp võ công và các tài liệu tối mật.Tiếp sau là phòng Phương Trượng, nơi ở của vị trụ trì. Sau phòng Phương Trượng là LậpTuyết Đình (Nơi đứng trên tuyết lạnh cầu đạo). Chính nơi đây, trước Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả đã chặt đứt cánh tay trái để tỏ lòng chí thành cầu đạo. Sau cùng là điện La Hán, là tòa điện lớn nhất trong Thiếu Lâm Tự, nơi truyền dạy công phu Thiếu Lâm. Chỉ những môn sinh tài giỏi nhất mới được tuyển vào luyện tập ở đây. Từ đây, những người xuất sắc nhất trong số môn sinh tài giỏi ấy lại được chọn để được truyền thụ đặc biệt trong Đạt Ma Đình, nơi họ được thụ giáo những tuyệt kỷ công phu Thiếu Lâm.Trên bốn bức tường điện La Hán là bức bích họa vĩ đại mô tả 500 vị La Hán biểu lộ sự tôn kính hướng về Đức Phật.
Trên nền gạch của điện La Hán còn nguyên những vết lõm sâu mà tương truyền là dấu chân của các cao thủ luyện công qua hàng thế kỷ. Phía đông điện La Hán là điện Quan Âm. Bức bích họa nổi tiếng hơn cả vẽ “mười ba vị sư Thiếu Lâm đang giải cứu vua Đường”.
Tường phía Bắc và phía Nam là tranh miêu tả các loại công phu Thiếu Lâm do các tăng nhân thực hiện bằng nhiều loại vũ khí khác nhau. Bởi thế, điện còn được gọi là điện Thiếu Lâm Công Phu. Một trong năm đỉnh núi phía sau chùa Thiếu Lâm là động Bồ Đề Đạt Ma, nơi ngài quay mặt vào vách đá thiền định suốt chín năm ròng rã, đến mức khuôn mặt ngài in hằn lên đá. Ngày nay, tảng đá ấy được đem về lồng kính trưng bày trong điện Quan Âm các.
Trong lịch sử gần 2000 năm, Thiếu Lâm Tự cũng từng trải qua những thời kỳ ảm đạm... Các công trình kiến trúc của chùa còn lại đến nay mang dấu ấn của nhiều triều đại, đa số được tu bổ và xây dựng từ thời nhà Minh, nhà Thanh.
Ngày nay, dưới chân núi Thiếu Thất có đến 60 học viện võ thuật Thiếu Lâm với hơn 40.000 môn sinh, là những thanh thiếu niên trên khắp đất nước Trung Hoa về đây ngày đêm khổ luyện. Trên nền tảng của truyền thống văn hóa dân tộc, sứ mệnh của thời đại, nhà nước Trung Quốc chủ trương nhất thống các võ phái của họ thành wushu - môn võ thuật hiện đại của Trung Quốc, lấy Thiếu Lâm Tự làm gốc.
Nhân một lần đi tàu liên vận sang xứ sở Trung Hoa huyền diệu, có hai người khách Hà Lan xuống tàu giữa đường. Như trả lời trước câu hỏi của tôi, họ nói: To Shaolin (Đến Thiếu Lâm). Quả thực danh tiếng của ngôi chùa này đã vượt qua xứ sở Trung Hoa rộng lớn.
Nguyễn Hạnh ( Lần đầu tới Trung Hoa)
Chùa Thiếu Lâm (Hán ngữ: 少林寺; Phiên âm: Shàolínsì; Hán Việt: Thiếu Lâm Tự; dịch nghĩa: "chùa trong rừng gần đỉnh Thiếu Thất") là một ngôi chùa tại Trung Quốc, nổi tiếng từ lâu nhờ mối liên hệ với Phật giáo Trung Quốc và Võ thuật và có lẽ nó là một cơ sở Phật giáo nổi tiếng nhất đối với phương Tây. Chùa Thiếu Lâm với võ phái Thiếu Lâm được xem là nguồn gốc các phái võ Trung Quốc hiện nay.
Thiếu Lâm Tự (少林寺) có nghĩa là ngôi chùa trong rừng. Nơi đây đã từng có một con người: Bồ Đề Đạt Ma 菩提達魔, vị tổ thứ 28 của Thiền tông Quyên Độc 身毒, tức nước Ấn Độ cổ. Sau khi xuống núi, ngài đi thuyền cập bến Quảng Châu vào năm thứ bảy đời Lương Võ Đế 梁武帝 (520). Từ đây khởi đầu một dòng võ lừng danh thế giới.
Không được sự đồng cảm, Bồ Đề Đạt Ma bèn tạ từ vị vua nhà Lương rồi xuôi lên phía Bắc. Sách chép rằng: Ngài vượt sông Dương Tử bằng cọng lau, lúc đầu dừng chân ở Lạc Dương, sau cùng dừng chân tại Thiếu Lâm Tự và diện bích suốt chín năm thiền định.
Từ bậc khai sáng qua nhiều đời kế, Phật giáo Thiền tông , trở thành dòng suối chảy nhuần qua nền văn hóa Trung Hoa và châu Á. Bồ Đề Đạt Ma đã phát triển Thiền tông, nâng lên tầm võ thuật, võ học, võ đạo.
Ngày nay, thăm chùa Thiếu Lâm Tự rất dễ nhận ra dấu ấn của trang sử võ học vẻ vang suốt 1.500 năm. Phong thuỷ Thiếu Lâm Tự được dựng theo trục Tý Ngọ-Bắc Nam. Bên trên sơn môn lấp lánh bút tích của vị hoàng đế cũng là nhà thư pháp lỗi lạc Khang Hy đề hoành. Dọc theo lối đi từ sơn môn đếnThiên Vương điện là rừng bi kí, một kho tàng thư pháp quí giá của văn hoáTrung Hoa. Sau điện Thiên Vương là chính sảnh, nơi vừa được trùng tu. Tất cả thẫm đẫm màu sắc huyền hoặc mà thanh tịnh. Nó phản ánh không chỉ lịch sử ngôi chùa mà còn cả lịch sử Trung Hoa suốt hơn 1000 năm. Chuyện kể rằng Càn Long 乾隆, vị vua thượng võ đời Thanh, nhân đến thăm Thiếu Lâm Tự, nghe câu chuyện Đạt Ma “cửu niên diện bích” và Nhị Tổ Huệ Khả cầu đạo đã xúc động vô cùng. Suốt đêm ông thao thức, nằm nghe mưa rơi ngoài hiên, gió thì thầm trên ngọn cây tùng và suy nghĩ vẩn vơ về ý nghĩa kiếp người.
Phía đông chính sảnh là Kim Nạp Lạc, nơi đặt tượng thần Đại La, vị thần của môn phái Thiếu Lâm. Sau chính sảnh là Tàng Kinh các, nơi lưu giữ kinh sách, bảo kíp võ công và các tài liệu tối mật.Tiếp sau là phòng Phương Trượng, nơi ở của vị trụ trì. Sau phòng Phương Trượng là LậpTuyết Đình (Nơi đứng trên tuyết lạnh cầu đạo). Chính nơi đây, trước Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả đã chặt đứt cánh tay trái để tỏ lòng chí thành cầu đạo. Sau cùng là điện La Hán, là tòa điện lớn nhất trong Thiếu Lâm Tự, nơi truyền dạy công phu Thiếu Lâm. Chỉ những môn sinh tài giỏi nhất mới được tuyển vào luyện tập ở đây. Từ đây, những người xuất sắc nhất trong số môn sinh tài giỏi ấy lại được chọn để được truyền thụ đặc biệt trong Đạt Ma Đình, nơi họ được thụ giáo những tuyệt kỷ công phu Thiếu Lâm.Trên bốn bức tường điện La Hán là bức bích họa vĩ đại mô tả 500 vị La Hán biểu lộ sự tôn kính hướng về Đức Phật.
Trên nền gạch của điện La Hán còn nguyên những vết lõm sâu mà tương truyền là dấu chân của các cao thủ luyện công qua hàng thế kỷ. Phía đông điện La Hán là điện Quan Âm. Bức bích họa nổi tiếng hơn cả vẽ “mười ba vị sư Thiếu Lâm đang giải cứu vua Đường”.
Tường phía Bắc và phía Nam là tranh miêu tả các loại công phu Thiếu Lâm do các tăng nhân thực hiện bằng nhiều loại vũ khí khác nhau. Bởi thế, điện còn được gọi là điện Thiếu Lâm Công Phu. Một trong năm đỉnh núi phía sau chùa Thiếu Lâm là động Bồ Đề Đạt Ma, nơi ngài quay mặt vào vách đá thiền định suốt chín năm ròng rã, đến mức khuôn mặt ngài in hằn lên đá. Ngày nay, tảng đá ấy được đem về lồng kính trưng bày trong điện Quan Âm các.
Trong lịch sử gần 2000 năm, Thiếu Lâm Tự cũng từng trải qua những thời kỳ ảm đạm... Các công trình kiến trúc của chùa còn lại đến nay mang dấu ấn của nhiều triều đại, đa số được tu bổ và xây dựng từ thời nhà Minh, nhà Thanh.
Ngày nay, dưới chân núi Thiếu Thất có đến 60 học viện võ thuật Thiếu Lâm với hơn 40.000 môn sinh, là những thanh thiếu niên trên khắp đất nước Trung Hoa về đây ngày đêm khổ luyện. Trên nền tảng của truyền thống văn hóa dân tộc, sứ mệnh của thời đại, nhà nước Trung Quốc chủ trương nhất thống các võ phái của họ thành wushu - môn võ thuật hiện đại của Trung Quốc, lấy Thiếu Lâm Tự làm gốc.
Nhân một lần đi tàu liên vận sang xứ sở Trung Hoa huyền diệu, có hai người khách Hà Lan xuống tàu giữa đường. Như trả lời trước câu hỏi của tôi, họ nói: To Shaolin (Đến Thiếu Lâm). Quả thực danh tiếng của ngôi chùa này đã vượt qua xứ sở Trung Hoa rộng lớn.
Nguyễn Hạnh ( Lần đầu tới Trung Hoa)
ÔNG NGOẠI TÔI
Ông ngoại tôi
Ông ngoại tôi mất khi tôi vừa vào cấp III, cho nên kỉ niệm rõ ràng về hình ảnh của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì vì ông là một học giả, ngày bé phòng làm việc của ông là cấm đứa nhỏ nào bén mảng tới.
Kính viếng hương hồn ông ngoại – nhà nghiên cứu dân tộc học Quỳnh Văn Lã Văn Lô).
Ông ngoại tôi mất khi tôi vừa vào cấp III, cho nên kỉ niệm rõ ràng về hình ảnh của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì vì ông là một học giả, ngày bé phòng làm việc của ông là cấm đứa nhỏ nào bén mảng tới.
Ông tôi nhiều sách lắm, lúc ông đi vắng nhiều lầnđánh bạo rủ lũ nhóc vào xem thì tôi chỉ thấy cơ man nào là sách tiếng Pháp, tiếng Trung, có khi cả những thứ chữ bà tôi bảo là của mấy ông thầy mo tận Mường Mán nào ấy ( mãi sau này lớn tôi mới hiểu đó là chữ Nôm Tày Dao) ông tôi sưu tập được khi còn làm tri châu Lạng Sơn.
Ông tôi vẽ rất giỏi, thường theo lối vẽ trúc của Trịnh Bản Kiều, đi điền dã nhiều khi ghi chép bằng hình ảnh chứ chả dùng văn tự. Tôi nhìn thấy những thứ đó thì mê lắm, cái gì cũng xem, nhưng trong số đó đặc biệt để ý đến vài tập sách vẽ tay khá rõ ràng về hai bài kiếm và quyền rất dài. Hình vẽ điệu đà mô tả một chàng trai lực lưỡng múa quyền và một cô gái đánh song kiếm trông rất điệu nghệ, ngày ấy tôi ngó thấy tên nhưng hình như chẳng để ý nên quên mất, hình như là Long Phượng Long Kiếm gì gì đó. Rồi năm tháng trôi qua…
…Tôi nhớ mãi ngày ấy bà tôi mắt đỏ hoe cẩn trọng nắm lấy vai mẹ tôi mà rằng: “ Con ơi! Thế là đôi bàn tay tài hoa của thầy nay đã yên nghỉ rồi…!!!... Một cảm giác gì hình như là sống mũi cay cay, tôi chạy vọt xuống phòng ông, sách vở bị lục lọi lung tung, bốn bề trống vắng… Tôi oà khóc, khóc đến tận bây giờ!.cuốn sách ấy cũng mất đi từ dạo đó.
Nói về ông tôi- một con người lưu lạc, thì chao ôi thật lắm câu chuyện, nào là một lần đi công tác ở Hữu Lũng bị ngã xuống vực sâu, ông được một người trong bản dùng thuật gọi Nàng Hai (gọi Chị Hằng) cứu sống, rồi thì khi làm tri châu Lạng Sơn, nhân một lần nói chuyện tiếng Bạch Thoại với tên thông ngôn Nhật về Đường Thủ ( Tang sho), ông được tên sĩ quan đất nước Phù Tang tặng ngay một thanh trường kiếm lưỡi gấp xịn và một con ngựa mang tên Ta lông, rồi thì khi bị một toán cướp Trung Quốc qua biên giới tấn công vào dinh thự tại Trì Ca, ông đã hạ gục tên thủ lĩnh như thế nào…
Sau này khi G.S Anh hùng lao động Vũ Khiêu kí giấy cấp cho ông tôi một căn hộ ở số nhà 102 D7 khu tập thể Thành Công- Ba Đình- Hà Nội, nhìn thấy sáng sáng ông tôi xách đôi kiếm gỗ đi tập thể dục thì có lẽ chẳng bao giờ tôi nghĩ rằng những lời đồn đại về ông là có cơ sở nếu như không có câu chuyện như sau:
…Đó là một buổi chiều nắng không chạm đất, mọi vật hình như ngưng lại sau cái oi bức trưa hè. Hồi ấy ông tôi có thói quen đi câu cá, thường đi một mình và về là đã có một rổ cá rô cho bà tôi rán lên uống rượu. Tôi nhớ mãi hôm ấy được điểm 10 môn chính tả, ông tôi chẳng có gì và quyết định thưởng cho tôi một món quà là đi cùng xem câu cá.
Địa điểm câu cá là ở ngay sau nhà, đó là bãi sông mà bây giờ là một số hàng quán thi nhau mọc lên ở đầu dốc Phụ Nữ. Ngoài bãi hồ hôm đó rất ít người, hai ông cháu tôi cứ im lìm đứng đợi phao động mà chẳng để ý gì đến xung quanh. Thời gian cứ thế lặng lờ trôi… Chà! Có lẽ hôm nay chẳng có cá nhắm rượu rồi!...
…Mặt trời đỏ ối như cười mỉm, như trêu ngươi. Ông tôi thì cứ trầm ngâm, còn tôi thì ngây thơ nghĩ vơ vẩn, tôi nhìn những đám mây hình cá, hình lâu đài, tôi lẩn thẩn ngó những chú gà ngô nghê vặt cỏ, tôi nghĩ đến Hạng Thác và câu hỏi mà ngay đức Thánh Khổng cũng không trả lời được là mặt trời buổi trưa bé hơn buổi chiều mà sao lại nóng hơn!...
Bỗng bên lề đường bên kia, tức là phía sông Tô Lịch bây giờ, tôi thấy thoáng bóng một người phụ nữ vừa chạy vừa la lối om sòm, tiếng kêu khóc mà một đứa con trẻ như tôi thời ấy cảm thấy sợ vô cùng, theo sau là một người đàn ông mặc một bộ quần áo bảo hộ lao động tay cầm một cái búa tạ hùng hục đuổi, khí thế như muốn giết người vậy!...
Tôi nhận ra ngay đó là vợ chồng một gia đình công nhân có gia cảnh rất khốn đốn, luôn lấy việc đánh chửi nhau làm bữa ăn chính vì anh chồng không chịu nổi cảnh khổ nên suốt ngày uống rượu gây gổ với vợ con. Hồi ấy việc uống rượu la đà đối với một người từ lứa tuổi thanh niên đến trung niên là không thể chấp nhận được, hơn nữa là thời kì còn khó khăn, uống bia rượu thường bị coi là xa xỉ. Ra ngoài đường chỉ thấy khi vui lắm người ta mới làm vài chén với đĩa lạc rang, những ông già thì cũng chỉ nhấm nháp một chén vào bữa cơm mà thôi. Việc nát rượu say sưa gây mất trật tự của anh nọ đã được mọi người nhắc nhở nhiều lần nhưng đâu vẫn đóng đấy. Có lẽ hôm ấy chị vợ khốn khổ kia đã chọc giận hắn thật ghê gớm nên mới xảy ra chuyện như vậy!
Nói thì rông dài nhưng sự việc xảy ra thì nhanh vô cùng, loáng một cái chị vợ đã chạy vọt sang chỗ ông cháu tôi dường muốn cầu cứu. Tên sát nhân kia cũng kịp trờ tới, tình thế cực kì nguy cấp vì lúc này ông tôi đang gần như ở vị trí đối diện với gã đàn ông mà chỉ thấy chiếc búa lăm lăm theo đà xốc tới nhằm sát thương chị vợ lúc đó đang bấu víu ngay đằng sau ông tôi.
Phải nói bao trùm lên khung cảnh lúc đó mà tôi cảm nhận được là một nỗi kinh hoàng làm tôi co rúm người lại…
Nhưng thật kì lạ là bỗng trong lúc đó chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của ông tôi hơi nghiêng sang một bên, hai tay ông chắp vào dứt khoát đưa cao lên đầu, chiếc búa văng ra mãnh liệt…
Hơi chựng người lại vì bất ngờ, gã đàn ông lẩm bẩm rồi lấy hết sức lao vào tay đấm chân đá, một hành động thật ghê tởm khi đòn thù ấy lại nhắm vào một ông già bảy mươi tuổi. Nhưng lần này vẫn thấy ông tôi bình thản đưa chân ra sau, một tay gạt lên, tay kia đỡ xuống, rồi nhanh như cắt rút về thoi ra hai quyền song song. Khổ thân cho gã đàn ông với đà lao vào lãnh trọn cú tổng lực, loạng choạng bật ra sau, sóng xoài rên rỉ, mặc cho hàng xóm chạy ra người xỉ vả, người xốc nách. Ông tôi biến thành một vị anh hùng của khu phố.
Kết quả hôm đó là một bữa rượu không có cá ăn, chiếc bút máy Parker và cái đồng hồ quả quýt, vật tuỳ thân của ông tôi thì văng đâu mất, nhưng đổi lại bên chén rượu suông, tôi được ông hào hứng kể lại bao nhiêu chuyện cũ và một điều đáng nói là cũng từ đó hàng quán bán nước ngày càng nhiều thêm nhưng không còn thấy anh chồng kia say rượu đánh vợ nữa. Còn riêng về phần võ thuật, mãi sau này tôi mới biết ba đòn thế hôm ấy ông tôi dùng lần lượt là Đồng tử bái Quan âm, Hổ giáng Long thăng, Song Long quá hải thuộc quyền pháp Thiếu Lâm chính tông. Nghe nói hồi còn nhỏ, các cụ đã đón cả thày Tàu về dạy cho ông môn công này.
Thế là nếu như chẳng xảy ra việc thì cũng chẳng ai biết một ông già hàng ngày ngồi bàn giấy viết sách ấy là ông ngoại tôi biết võ, thứ võ thuật đã biến thành võ đạo khi hữu sự cứu người. Càng nghĩ về ông, tôi càng thấm thía cái hành xử của võ đạo nhân sinh lồng vào nghĩa một người học giả.
Tôi có một anh bạn nhà thơ vong niên, khi ngà say rất tâm đắc câu: “ …Ông thợ rèn mắt sắc như dao, cười nói rằng con tôi vụng lắm, chẳng biết rèn cả cái then cửa sắt trước nhà tưởng niệm Nguyễn Du…”. Hôm nay nói chuyện về tiền nhân, những người thợ rèn vụng về chúng tôi kính dâng lên họ những gì thiêng liêng nhất, cái then cửa tuy chẳng phải là vàng nhưng có thể khoá chặt được một kho báu của muôn đời.
Nguyễn Hạnh. ( Viết với lòng tôn kính nhất).
Ông ngoại tôi mất khi tôi vừa vào cấp III, cho nên kỉ niệm rõ ràng về hình ảnh của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì vì ông là một học giả, ngày bé phòng làm việc của ông là cấm đứa nhỏ nào bén mảng tới.
Kính viếng hương hồn ông ngoại – nhà nghiên cứu dân tộc học Quỳnh Văn Lã Văn Lô).
Ông ngoại tôi mất khi tôi vừa vào cấp III, cho nên kỉ niệm rõ ràng về hình ảnh của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì vì ông là một học giả, ngày bé phòng làm việc của ông là cấm đứa nhỏ nào bén mảng tới.
Ông tôi nhiều sách lắm, lúc ông đi vắng nhiều lầnđánh bạo rủ lũ nhóc vào xem thì tôi chỉ thấy cơ man nào là sách tiếng Pháp, tiếng Trung, có khi cả những thứ chữ bà tôi bảo là của mấy ông thầy mo tận Mường Mán nào ấy ( mãi sau này lớn tôi mới hiểu đó là chữ Nôm Tày Dao) ông tôi sưu tập được khi còn làm tri châu Lạng Sơn.
Ông tôi vẽ rất giỏi, thường theo lối vẽ trúc của Trịnh Bản Kiều, đi điền dã nhiều khi ghi chép bằng hình ảnh chứ chả dùng văn tự. Tôi nhìn thấy những thứ đó thì mê lắm, cái gì cũng xem, nhưng trong số đó đặc biệt để ý đến vài tập sách vẽ tay khá rõ ràng về hai bài kiếm và quyền rất dài. Hình vẽ điệu đà mô tả một chàng trai lực lưỡng múa quyền và một cô gái đánh song kiếm trông rất điệu nghệ, ngày ấy tôi ngó thấy tên nhưng hình như chẳng để ý nên quên mất, hình như là Long Phượng Long Kiếm gì gì đó. Rồi năm tháng trôi qua…
…Tôi nhớ mãi ngày ấy bà tôi mắt đỏ hoe cẩn trọng nắm lấy vai mẹ tôi mà rằng: “ Con ơi! Thế là đôi bàn tay tài hoa của thầy nay đã yên nghỉ rồi…!!!... Một cảm giác gì hình như là sống mũi cay cay, tôi chạy vọt xuống phòng ông, sách vở bị lục lọi lung tung, bốn bề trống vắng… Tôi oà khóc, khóc đến tận bây giờ!.cuốn sách ấy cũng mất đi từ dạo đó.
Nói về ông tôi- một con người lưu lạc, thì chao ôi thật lắm câu chuyện, nào là một lần đi công tác ở Hữu Lũng bị ngã xuống vực sâu, ông được một người trong bản dùng thuật gọi Nàng Hai (gọi Chị Hằng) cứu sống, rồi thì khi làm tri châu Lạng Sơn, nhân một lần nói chuyện tiếng Bạch Thoại với tên thông ngôn Nhật về Đường Thủ ( Tang sho), ông được tên sĩ quan đất nước Phù Tang tặng ngay một thanh trường kiếm lưỡi gấp xịn và một con ngựa mang tên Ta lông, rồi thì khi bị một toán cướp Trung Quốc qua biên giới tấn công vào dinh thự tại Trì Ca, ông đã hạ gục tên thủ lĩnh như thế nào…
Sau này khi G.S Anh hùng lao động Vũ Khiêu kí giấy cấp cho ông tôi một căn hộ ở số nhà 102 D7 khu tập thể Thành Công- Ba Đình- Hà Nội, nhìn thấy sáng sáng ông tôi xách đôi kiếm gỗ đi tập thể dục thì có lẽ chẳng bao giờ tôi nghĩ rằng những lời đồn đại về ông là có cơ sở nếu như không có câu chuyện như sau:
…Đó là một buổi chiều nắng không chạm đất, mọi vật hình như ngưng lại sau cái oi bức trưa hè. Hồi ấy ông tôi có thói quen đi câu cá, thường đi một mình và về là đã có một rổ cá rô cho bà tôi rán lên uống rượu. Tôi nhớ mãi hôm ấy được điểm 10 môn chính tả, ông tôi chẳng có gì và quyết định thưởng cho tôi một món quà là đi cùng xem câu cá.
Địa điểm câu cá là ở ngay sau nhà, đó là bãi sông mà bây giờ là một số hàng quán thi nhau mọc lên ở đầu dốc Phụ Nữ. Ngoài bãi hồ hôm đó rất ít người, hai ông cháu tôi cứ im lìm đứng đợi phao động mà chẳng để ý gì đến xung quanh. Thời gian cứ thế lặng lờ trôi… Chà! Có lẽ hôm nay chẳng có cá nhắm rượu rồi!...
…Mặt trời đỏ ối như cười mỉm, như trêu ngươi. Ông tôi thì cứ trầm ngâm, còn tôi thì ngây thơ nghĩ vơ vẩn, tôi nhìn những đám mây hình cá, hình lâu đài, tôi lẩn thẩn ngó những chú gà ngô nghê vặt cỏ, tôi nghĩ đến Hạng Thác và câu hỏi mà ngay đức Thánh Khổng cũng không trả lời được là mặt trời buổi trưa bé hơn buổi chiều mà sao lại nóng hơn!...
Bỗng bên lề đường bên kia, tức là phía sông Tô Lịch bây giờ, tôi thấy thoáng bóng một người phụ nữ vừa chạy vừa la lối om sòm, tiếng kêu khóc mà một đứa con trẻ như tôi thời ấy cảm thấy sợ vô cùng, theo sau là một người đàn ông mặc một bộ quần áo bảo hộ lao động tay cầm một cái búa tạ hùng hục đuổi, khí thế như muốn giết người vậy!...
Tôi nhận ra ngay đó là vợ chồng một gia đình công nhân có gia cảnh rất khốn đốn, luôn lấy việc đánh chửi nhau làm bữa ăn chính vì anh chồng không chịu nổi cảnh khổ nên suốt ngày uống rượu gây gổ với vợ con. Hồi ấy việc uống rượu la đà đối với một người từ lứa tuổi thanh niên đến trung niên là không thể chấp nhận được, hơn nữa là thời kì còn khó khăn, uống bia rượu thường bị coi là xa xỉ. Ra ngoài đường chỉ thấy khi vui lắm người ta mới làm vài chén với đĩa lạc rang, những ông già thì cũng chỉ nhấm nháp một chén vào bữa cơm mà thôi. Việc nát rượu say sưa gây mất trật tự của anh nọ đã được mọi người nhắc nhở nhiều lần nhưng đâu vẫn đóng đấy. Có lẽ hôm ấy chị vợ khốn khổ kia đã chọc giận hắn thật ghê gớm nên mới xảy ra chuyện như vậy!
Nói thì rông dài nhưng sự việc xảy ra thì nhanh vô cùng, loáng một cái chị vợ đã chạy vọt sang chỗ ông cháu tôi dường muốn cầu cứu. Tên sát nhân kia cũng kịp trờ tới, tình thế cực kì nguy cấp vì lúc này ông tôi đang gần như ở vị trí đối diện với gã đàn ông mà chỉ thấy chiếc búa lăm lăm theo đà xốc tới nhằm sát thương chị vợ lúc đó đang bấu víu ngay đằng sau ông tôi.
Phải nói bao trùm lên khung cảnh lúc đó mà tôi cảm nhận được là một nỗi kinh hoàng làm tôi co rúm người lại…
Nhưng thật kì lạ là bỗng trong lúc đó chỉ thấy thân hình mảnh dẻ của ông tôi hơi nghiêng sang một bên, hai tay ông chắp vào dứt khoát đưa cao lên đầu, chiếc búa văng ra mãnh liệt…
Hơi chựng người lại vì bất ngờ, gã đàn ông lẩm bẩm rồi lấy hết sức lao vào tay đấm chân đá, một hành động thật ghê tởm khi đòn thù ấy lại nhắm vào một ông già bảy mươi tuổi. Nhưng lần này vẫn thấy ông tôi bình thản đưa chân ra sau, một tay gạt lên, tay kia đỡ xuống, rồi nhanh như cắt rút về thoi ra hai quyền song song. Khổ thân cho gã đàn ông với đà lao vào lãnh trọn cú tổng lực, loạng choạng bật ra sau, sóng xoài rên rỉ, mặc cho hàng xóm chạy ra người xỉ vả, người xốc nách. Ông tôi biến thành một vị anh hùng của khu phố.
Kết quả hôm đó là một bữa rượu không có cá ăn, chiếc bút máy Parker và cái đồng hồ quả quýt, vật tuỳ thân của ông tôi thì văng đâu mất, nhưng đổi lại bên chén rượu suông, tôi được ông hào hứng kể lại bao nhiêu chuyện cũ và một điều đáng nói là cũng từ đó hàng quán bán nước ngày càng nhiều thêm nhưng không còn thấy anh chồng kia say rượu đánh vợ nữa. Còn riêng về phần võ thuật, mãi sau này tôi mới biết ba đòn thế hôm ấy ông tôi dùng lần lượt là Đồng tử bái Quan âm, Hổ giáng Long thăng, Song Long quá hải thuộc quyền pháp Thiếu Lâm chính tông. Nghe nói hồi còn nhỏ, các cụ đã đón cả thày Tàu về dạy cho ông môn công này.
Thế là nếu như chẳng xảy ra việc thì cũng chẳng ai biết một ông già hàng ngày ngồi bàn giấy viết sách ấy là ông ngoại tôi biết võ, thứ võ thuật đã biến thành võ đạo khi hữu sự cứu người. Càng nghĩ về ông, tôi càng thấm thía cái hành xử của võ đạo nhân sinh lồng vào nghĩa một người học giả.
Tôi có một anh bạn nhà thơ vong niên, khi ngà say rất tâm đắc câu: “ …Ông thợ rèn mắt sắc như dao, cười nói rằng con tôi vụng lắm, chẳng biết rèn cả cái then cửa sắt trước nhà tưởng niệm Nguyễn Du…”. Hôm nay nói chuyện về tiền nhân, những người thợ rèn vụng về chúng tôi kính dâng lên họ những gì thiêng liêng nhất, cái then cửa tuy chẳng phải là vàng nhưng có thể khoá chặt được một kho báu của muôn đời.
Nguyễn Hạnh. ( Viết với lòng tôn kính nhất).
VÕ THUẬT VÀ THƯ PHÁP
Võ thuật và Thư pháp
Võ thuật và thư pháp đều là di sản của văn hoá Trung Hoa, đều được người đời sau biết đến bởi sự tinh diệu của chúng. Võ thuật là một môn thể dục truyền thống có nội dung phong phú, hình thức đa dạng, phong cách độc đáo, nó giúp cho con người ta có một thân thể khoẻ mạnh, là một phương tiện tu tâm dưỡng tính, phòng thân và có thể được coi là một môn thể thao thi đấu.
Trong khi đó thư pháp lại là những phép tắc dùng bút lông để viết chữ ở một số quốc gia dùng hệ thống văn tự khối vuông. Ngoài tính truyền tải thông tin, thư pháp còn mang tính nghệ thuật cao. Hai bên một văn một võ, tựa như không hề có một mối quan hệ nào, kì thực thì ngược lại. Có một anh bạn của tôi từng học khoa văn hiến Trung Quốc tại Bắc Kinh, mỗi lần bàn về hai thứ nghệ thuật này thường ngâm nga: “ Sơn Cốc viết hành, phẩy dài mác sắc, Võ Đang quyền pháp, phượng múa rồng bay. Hữu Quân viết ngay, móc vàng nét sắt, Thiếu Lâm quyền thuật, gân cốt là đây”, câu nói này muốn nói võ thuật và thư pháp có cùng một cơ sở, tuy khác thể mà cùng công, kì diệu, trong quá trình học tập có thể đối chiếu, tham khảo.
Giữa võ thuật và thư pháp có mối quan hệ cả bên trong và bên ngoài. Xét về quan hệ bên ngoài, võ thuật lấy công thủ phản biến làm chủ, lấy quyền thuật làm phương tiện biểu hiện. Võ thuật hàm chứa yếu tố nội ngoại, gồm đủ hình thần, đặc thù nhịp điệu vận động rõ ràng, phân minh. Những động tác trong quyền thuật mang ý nghĩa chiến đấu, trải qua rèn luyện đúc kết hình thành một chuỗi hệ thống hữu cơ hợp lí , khi biểu diễn như thế cần thể hiện được tinh thần của công thủ kết hợp với hô hấp, động tác nhịp nhàng; Khi động thì nhanh mà có lực, tĩnh thì vững như đá chôn cột đình ; Động Tĩnh cần thay đổi điều hoà. Ba yếu tố “Tinh, Khí, Thần” trong võ thuật bao hàm cái đẹp cương cường uy vũ, khiến chúng ta có cái khí thế mạnh mẽ dường như không gì cản nổi.
Còn thư pháp thì yêu cầu vận bút nặng nhẹ, Đề, Án, Đốn, Tỏa hài hoà như những nốt nhạc rung ngân. Điểm nét khinh trọng thô mảnh, mực viết khô nhạt đậm ướt biến hoá, xử lí thích hợp; Đặt bút thu bút tròn trĩnh chu đáo, làm cho nét bút có thần thái , có sức sống , có gân cốt , hàm chứa cả cái đẹp động thái lẫn tinh thần. Bố cục hàng lối chữ nghĩa ngang dọc lề lối , biến hoá thích hợp, trọng tâm bình ổn , điểm nét tương trợ , tỉ lệ hài hoà , dày thưa cân đối , cốt lấy cái ý hư thực tương sinh, thu phóng tương ứng, chữ hiện lên đầy sức sống sinh động. Một tác phẩm hoàn chỉnh cần mang đầy đủ tính chương pháp, bố cục, yêu cầu không gian đầu cuối, chữ với chữ, hàng với hàng, toàn bức một khí mà thành, gân mạch nối liền, khoảng hở đích đáng, to nhỏ thích nghi, sắp xếp biến hoá, tương hỗ lẫn nhau, phong thái nhất quán, đa dạng mà thống nhất. Một bức thư pháp để được gọi là tốt có thể khiến người xem cảm giác được sức sống, hàm chứa thần thái dồi dào, mang vẻ đẹp bút pháp, chương pháp, kĩ thuật hùng hồn, phóng đãng, duyên dáng hay hào sảng tuỳ theo từng phong cách khác nhau.
Từ những điều trên, có thể nói về hình thức bên ngoài võ thuật và thư pháp có một sự tương đồng rất lớn. Thư pháp Trung Hoa như “ Dường đứng dường ngồi, dường bay dường chạy, dường đến dường đi, dường nằm dường dậy, dường buồn dường vui, tựa côn trùng hoá lá cây, tựa kiếm sắc giáo dài thành cung xa tên lớn…(Sái Ung “Bút luận”). Võ thuật Trung Quốc động tác vững vàng như “Cây cao bóng cả”, nhanh như “Chèo bẻo đánh quạ”, duyên dáng như “Cò lả”, khéo như “Xe chỉ luồn kim”, mạnh mẽ như “ Anh hùng xuống núi”, gân cốt như “ Mèo già trèo cây”, điệu đà như “ Hoa thơm bướm lượn”.v.v... Hai đằng như thể quán thông, cùng nguồn khởi phát. Thư pháp chủ trương “Nhập mộc tam phân”, tức gân cốt, máu, thịt. Võ thuật cũng hết sức đề cao “ Xương cốt”. Đã có người lấy tứ chi và bộ khung xương người phân thành “ Ngũ cốt”, nhắc nhở cần phải có lực, sức mạnh cường tráng, kình phát ngay ngắn. Trên lí thuyết phân ra làm chưởng, bạt, trương, triển, câu, cấu, kiều, bảng.v.v… tương đương với đẩy, kéo, giang, mở, móc, gõ, nâng, nhảy…; Thư pháp đề ra phép gian giá kết cấu ngang dọc, nếu tư thế vẹo lệch, hệ thống phóng túng thì luyện cả đời viết chữ cũng chỉ bằng thừa. Võ thuật cho rằng thân phải ngay, bước phải vững, chiêu thức gọn gàng tức đòi hỏi tính chuẩn xác, hài hoà, chững chạc, nếu không thì không thể gọi là võ thuật nữa. Thư pháp yêu cầu nhìn ngó bố cục trước sau, tiền hậu tương ứng, cùng nắm, cùng chèo, có trọng có khinh, có nhu có cứng, có lộ có tàng, có hư có thực, có ngay có lệch, có ngắn có dài, có đè có nhấc. Còn động tác võ thuật luôn bao hàm Âm Dương, tức là có tiến có lùi, có cao có thấp, có trường có đoản.v.v… Để bắt đầu học võ thuật và thư pháp, người ta phải đi từ chỗ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ nông đến sâu. Võ thuật cần bắt đầu từ những động tác cơ bản, học thuộc những khuôn mẫu chính xác, sau đó mới luyện đến quyền thuật, rồi dần dần sang phần công thủ phản biến. Trong khi đó thư pháp cần bắt đầu bằng việc luyện thể chữ chính Khải chân phương mô phạm, sau đó mới đến Hành thư và Thảo thư như thể từ lẫy, bò, đi rồi mới đến chạy vậy. Thư pháp có các thể chữ Chân, Hành, Thảo, Lệ, Triện, võ thuật có Đao, Thương, Kiếm, Côn, Quyền. Thư pháp có Nhan, Âu, Liễu, Chử các danh gia đồng qui văn tự, võ thuật có Bát đại chư danh phái cùng gặp ở quyền.
Trung Hoa cổ đại có nhiều nhà thư pháp nổi tiếng xuất thân từ quyền thuật như Trương Húc đời Đường, Hoài Hi đều nhân quan khán Công Tôn Nương múa kiếm mà thăng tiến về Thảo thư. Ngược lại những nhà thư pháp trưởng thành trong võ thuật cũng có số lượng không phải là ít. Trong số đó phải kể đến thư pháp của Tôn Lộc đường, vận chuyển tự nhiên, cốt lực tiềm tàng, hùng hồn như chính quyền pháp của bản thân mình. Ngoài ra ta còn được chiêm ngưỡng thư pháp của Hà Phúc Sinh, Hải Đăng pháp sư cùng vô khối nhà võ sư- thư pháp gia khác.
Giờ chúng ta hãy xét mối quan hệ nội tại giữa thư pháp và võ thuật. Cả hai nghệ thuật này đều chú ý đến vận động của cổ tay. Ngô Đồ Nam trong tác phẩm “Quốc thuật khái luận” có nói: “ Làm thế nào để vận khí lực theo ý mình từ bàn tay sát thương được đối thủ? Chỉ cần dựa vào cổ tay mà đoán định. Nếu vai không buông lỏng thì lực không thấu đến khuỷu tay, khuỷu tay không lơi thì lực chẳng đến cổ tay, cổ tay không linh hoạt thì sao vận lực vào ngón tay được!? Thế thì đừng nghĩ đến việc đả thương đối thủ, cho nên một việc cần thiết cho việc luyện tập võ thuật là vận động cổ tay”. Việc thực hành thư pháp đề cập đến phép “Đề uyển huyền trửu” mà các cụ ngày xưa gọi nôm na là treo tay, như vậy có thể giúp cổ và ngón tay linh hoạt, có thể vận bút tự nhiên, dễ dàng điều chỉnh nặng nhẹ nhanh chậm, ý đến đâu tay theo đến đấy. Tương truyền nhà thư pháp Vương Hiến Chi khi viết chữ, bố là Vương Hi Chi nhân lúc ông không đề phòng, thò tay kéo khuỷu tay mà bút không hề máy động, Vương Hi Chi dự đoán sau này ông sẽ trở thành một nhà thư pháp lớn. Vương Hi Chi rất yêu quí giống thiên nga vì ông cho rằng sự vận động của phần cổ của giống chim này có thể giúp người tập thư pháp sáng tạo ra những phương pháp vận động cổ tay hữu hiệu, bổ ích vô cùng cho việc tập viết chữ bằng bút lông. Trong quá trình luyện tập thư pháp vì thế chúng ta có thể tham khảo những bài tập cổ tay của quyền thuật, kiếm pháp nhằm nâng cao kình lực và sự linh hoạt của cổ tay.
Nếu có thể kết hợp giữa thư pháp và Thái Cực Quyền thì đây là một tổ hợp tuyệt vời. Trong thư pháp người ta đúc kết rằng: “ Nếu thần mà không hoà, thì chữ vô hồn. Tâm mà không kiên định, chữ nghĩa không cương cường”. Trước khi viết chữ cần định Tâm tĩnh Trí, Khí tại đan điền, khi viết ý ở trước bút, một nét mà thành, khí mạch liên miên thì chữ mới sinh động, khí chạy không rời đổi, không đứt đoạn, có nhanh có chậm, có nặng có nhẹ, gồm đủ Âm Dương. Đó cũng là chủ ý của Thái Cực Quyền vậy!
Võ thuật và Thư pháp đều bắt nguồn từ đời sống lao động, qua quá trình tương hỗ song hành phát triển giữa bao nghành nghề khác, khi những bậc già nua râu tóc rưng rưng múa cho hậu nhân những đường tuyệt kĩ thì cũng là lúc họ đem tất cả những gì đúc kết lại cho con cháu đời sau, và cũng là lúc chúng ta hiểu rằng Võ thuật và Thư pháp còn chung nhau sự đam mê cháy bỏng của một đời người, bởi cả hai đều là những môn nghệ thuật, vì con người đã sinh ra và mãi cùng nhau bất diệt.
Nguyễn Hạnh. (Theo Thần kì đích vũ thuật-NXB nhân dân Quảng Tây)(Nguồn:Web site Tứ Hải Quán:http://tuhai.com.vn)
Võ thuật và thư pháp đều là di sản của văn hoá Trung Hoa, đều được người đời sau biết đến bởi sự tinh diệu của chúng. Võ thuật là một môn thể dục truyền thống có nội dung phong phú, hình thức đa dạng, phong cách độc đáo, nó giúp cho con người ta có một thân thể khoẻ mạnh, là một phương tiện tu tâm dưỡng tính, phòng thân và có thể được coi là một môn thể thao thi đấu.
Trong khi đó thư pháp lại là những phép tắc dùng bút lông để viết chữ ở một số quốc gia dùng hệ thống văn tự khối vuông. Ngoài tính truyền tải thông tin, thư pháp còn mang tính nghệ thuật cao. Hai bên một văn một võ, tựa như không hề có một mối quan hệ nào, kì thực thì ngược lại. Có một anh bạn của tôi từng học khoa văn hiến Trung Quốc tại Bắc Kinh, mỗi lần bàn về hai thứ nghệ thuật này thường ngâm nga: “ Sơn Cốc viết hành, phẩy dài mác sắc, Võ Đang quyền pháp, phượng múa rồng bay. Hữu Quân viết ngay, móc vàng nét sắt, Thiếu Lâm quyền thuật, gân cốt là đây”, câu nói này muốn nói võ thuật và thư pháp có cùng một cơ sở, tuy khác thể mà cùng công, kì diệu, trong quá trình học tập có thể đối chiếu, tham khảo.
Giữa võ thuật và thư pháp có mối quan hệ cả bên trong và bên ngoài. Xét về quan hệ bên ngoài, võ thuật lấy công thủ phản biến làm chủ, lấy quyền thuật làm phương tiện biểu hiện. Võ thuật hàm chứa yếu tố nội ngoại, gồm đủ hình thần, đặc thù nhịp điệu vận động rõ ràng, phân minh. Những động tác trong quyền thuật mang ý nghĩa chiến đấu, trải qua rèn luyện đúc kết hình thành một chuỗi hệ thống hữu cơ hợp lí , khi biểu diễn như thế cần thể hiện được tinh thần của công thủ kết hợp với hô hấp, động tác nhịp nhàng; Khi động thì nhanh mà có lực, tĩnh thì vững như đá chôn cột đình ; Động Tĩnh cần thay đổi điều hoà. Ba yếu tố “Tinh, Khí, Thần” trong võ thuật bao hàm cái đẹp cương cường uy vũ, khiến chúng ta có cái khí thế mạnh mẽ dường như không gì cản nổi.
Còn thư pháp thì yêu cầu vận bút nặng nhẹ, Đề, Án, Đốn, Tỏa hài hoà như những nốt nhạc rung ngân. Điểm nét khinh trọng thô mảnh, mực viết khô nhạt đậm ướt biến hoá, xử lí thích hợp; Đặt bút thu bút tròn trĩnh chu đáo, làm cho nét bút có thần thái , có sức sống , có gân cốt , hàm chứa cả cái đẹp động thái lẫn tinh thần. Bố cục hàng lối chữ nghĩa ngang dọc lề lối , biến hoá thích hợp, trọng tâm bình ổn , điểm nét tương trợ , tỉ lệ hài hoà , dày thưa cân đối , cốt lấy cái ý hư thực tương sinh, thu phóng tương ứng, chữ hiện lên đầy sức sống sinh động. Một tác phẩm hoàn chỉnh cần mang đầy đủ tính chương pháp, bố cục, yêu cầu không gian đầu cuối, chữ với chữ, hàng với hàng, toàn bức một khí mà thành, gân mạch nối liền, khoảng hở đích đáng, to nhỏ thích nghi, sắp xếp biến hoá, tương hỗ lẫn nhau, phong thái nhất quán, đa dạng mà thống nhất. Một bức thư pháp để được gọi là tốt có thể khiến người xem cảm giác được sức sống, hàm chứa thần thái dồi dào, mang vẻ đẹp bút pháp, chương pháp, kĩ thuật hùng hồn, phóng đãng, duyên dáng hay hào sảng tuỳ theo từng phong cách khác nhau.
Từ những điều trên, có thể nói về hình thức bên ngoài võ thuật và thư pháp có một sự tương đồng rất lớn. Thư pháp Trung Hoa như “ Dường đứng dường ngồi, dường bay dường chạy, dường đến dường đi, dường nằm dường dậy, dường buồn dường vui, tựa côn trùng hoá lá cây, tựa kiếm sắc giáo dài thành cung xa tên lớn…(Sái Ung “Bút luận”). Võ thuật Trung Quốc động tác vững vàng như “Cây cao bóng cả”, nhanh như “Chèo bẻo đánh quạ”, duyên dáng như “Cò lả”, khéo như “Xe chỉ luồn kim”, mạnh mẽ như “ Anh hùng xuống núi”, gân cốt như “ Mèo già trèo cây”, điệu đà như “ Hoa thơm bướm lượn”.v.v... Hai đằng như thể quán thông, cùng nguồn khởi phát. Thư pháp chủ trương “Nhập mộc tam phân”, tức gân cốt, máu, thịt. Võ thuật cũng hết sức đề cao “ Xương cốt”. Đã có người lấy tứ chi và bộ khung xương người phân thành “ Ngũ cốt”, nhắc nhở cần phải có lực, sức mạnh cường tráng, kình phát ngay ngắn. Trên lí thuyết phân ra làm chưởng, bạt, trương, triển, câu, cấu, kiều, bảng.v.v… tương đương với đẩy, kéo, giang, mở, móc, gõ, nâng, nhảy…; Thư pháp đề ra phép gian giá kết cấu ngang dọc, nếu tư thế vẹo lệch, hệ thống phóng túng thì luyện cả đời viết chữ cũng chỉ bằng thừa. Võ thuật cho rằng thân phải ngay, bước phải vững, chiêu thức gọn gàng tức đòi hỏi tính chuẩn xác, hài hoà, chững chạc, nếu không thì không thể gọi là võ thuật nữa. Thư pháp yêu cầu nhìn ngó bố cục trước sau, tiền hậu tương ứng, cùng nắm, cùng chèo, có trọng có khinh, có nhu có cứng, có lộ có tàng, có hư có thực, có ngay có lệch, có ngắn có dài, có đè có nhấc. Còn động tác võ thuật luôn bao hàm Âm Dương, tức là có tiến có lùi, có cao có thấp, có trường có đoản.v.v… Để bắt đầu học võ thuật và thư pháp, người ta phải đi từ chỗ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ nông đến sâu. Võ thuật cần bắt đầu từ những động tác cơ bản, học thuộc những khuôn mẫu chính xác, sau đó mới luyện đến quyền thuật, rồi dần dần sang phần công thủ phản biến. Trong khi đó thư pháp cần bắt đầu bằng việc luyện thể chữ chính Khải chân phương mô phạm, sau đó mới đến Hành thư và Thảo thư như thể từ lẫy, bò, đi rồi mới đến chạy vậy. Thư pháp có các thể chữ Chân, Hành, Thảo, Lệ, Triện, võ thuật có Đao, Thương, Kiếm, Côn, Quyền. Thư pháp có Nhan, Âu, Liễu, Chử các danh gia đồng qui văn tự, võ thuật có Bát đại chư danh phái cùng gặp ở quyền.
Trung Hoa cổ đại có nhiều nhà thư pháp nổi tiếng xuất thân từ quyền thuật như Trương Húc đời Đường, Hoài Hi đều nhân quan khán Công Tôn Nương múa kiếm mà thăng tiến về Thảo thư. Ngược lại những nhà thư pháp trưởng thành trong võ thuật cũng có số lượng không phải là ít. Trong số đó phải kể đến thư pháp của Tôn Lộc đường, vận chuyển tự nhiên, cốt lực tiềm tàng, hùng hồn như chính quyền pháp của bản thân mình. Ngoài ra ta còn được chiêm ngưỡng thư pháp của Hà Phúc Sinh, Hải Đăng pháp sư cùng vô khối nhà võ sư- thư pháp gia khác.
Giờ chúng ta hãy xét mối quan hệ nội tại giữa thư pháp và võ thuật. Cả hai nghệ thuật này đều chú ý đến vận động của cổ tay. Ngô Đồ Nam trong tác phẩm “Quốc thuật khái luận” có nói: “ Làm thế nào để vận khí lực theo ý mình từ bàn tay sát thương được đối thủ? Chỉ cần dựa vào cổ tay mà đoán định. Nếu vai không buông lỏng thì lực không thấu đến khuỷu tay, khuỷu tay không lơi thì lực chẳng đến cổ tay, cổ tay không linh hoạt thì sao vận lực vào ngón tay được!? Thế thì đừng nghĩ đến việc đả thương đối thủ, cho nên một việc cần thiết cho việc luyện tập võ thuật là vận động cổ tay”. Việc thực hành thư pháp đề cập đến phép “Đề uyển huyền trửu” mà các cụ ngày xưa gọi nôm na là treo tay, như vậy có thể giúp cổ và ngón tay linh hoạt, có thể vận bút tự nhiên, dễ dàng điều chỉnh nặng nhẹ nhanh chậm, ý đến đâu tay theo đến đấy. Tương truyền nhà thư pháp Vương Hiến Chi khi viết chữ, bố là Vương Hi Chi nhân lúc ông không đề phòng, thò tay kéo khuỷu tay mà bút không hề máy động, Vương Hi Chi dự đoán sau này ông sẽ trở thành một nhà thư pháp lớn. Vương Hi Chi rất yêu quí giống thiên nga vì ông cho rằng sự vận động của phần cổ của giống chim này có thể giúp người tập thư pháp sáng tạo ra những phương pháp vận động cổ tay hữu hiệu, bổ ích vô cùng cho việc tập viết chữ bằng bút lông. Trong quá trình luyện tập thư pháp vì thế chúng ta có thể tham khảo những bài tập cổ tay của quyền thuật, kiếm pháp nhằm nâng cao kình lực và sự linh hoạt của cổ tay.
Nếu có thể kết hợp giữa thư pháp và Thái Cực Quyền thì đây là một tổ hợp tuyệt vời. Trong thư pháp người ta đúc kết rằng: “ Nếu thần mà không hoà, thì chữ vô hồn. Tâm mà không kiên định, chữ nghĩa không cương cường”. Trước khi viết chữ cần định Tâm tĩnh Trí, Khí tại đan điền, khi viết ý ở trước bút, một nét mà thành, khí mạch liên miên thì chữ mới sinh động, khí chạy không rời đổi, không đứt đoạn, có nhanh có chậm, có nặng có nhẹ, gồm đủ Âm Dương. Đó cũng là chủ ý của Thái Cực Quyền vậy!
Võ thuật và Thư pháp đều bắt nguồn từ đời sống lao động, qua quá trình tương hỗ song hành phát triển giữa bao nghành nghề khác, khi những bậc già nua râu tóc rưng rưng múa cho hậu nhân những đường tuyệt kĩ thì cũng là lúc họ đem tất cả những gì đúc kết lại cho con cháu đời sau, và cũng là lúc chúng ta hiểu rằng Võ thuật và Thư pháp còn chung nhau sự đam mê cháy bỏng của một đời người, bởi cả hai đều là những môn nghệ thuật, vì con người đã sinh ra và mãi cùng nhau bất diệt.
Nguyễn Hạnh. (Theo Thần kì đích vũ thuật-NXB nhân dân Quảng Tây)(Nguồn:Web site Tứ Hải Quán:http://tuhai.com.vn)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)