Thứ Tư, 11 tháng 7, 2007

Ăn chay

Ăn chay là những tập quán ăn các món có nguồn gốc thảo mộc, hoa trái, không ăn những đồ ăn có nguồn gốc động vật để thực hiện đức hiếu sinh. Ăn chay chia ra làm hai loại chính: Ăn chay kỳ và ăn chay trường.
Ăn chay kỳ, là ăn chay có kỳ hạn nhất định trong một tháng hay trong một năm:
Nhị trai, ăn chay 2 ngày trong tháng (ngày 1 và 15 â.l.)
Tứ trai, mỗi tháng ăn chay 4 ngày ( 1,8, 15 và 23).
Lục trai, ăn chay sáu ngày mỗi tháng ( 1,8,14, 15,23, 29 và 30, nếu tháng thiếu lấy 28 và 29).
Thập trai, ăn chay mười ngày ( ngày 1,8,14,15,18,23,28,29,30, nếu tháng thiếu lấy các ngày 27,28,29).
Nhất nguyệt trai, ăn chay cả tháng( Tháng giêng hay là tháng bẩy â.l.).
Tam nguyệt trai, ăn 3 tháng chay( các tháng Giêng, Bảy, Chín, Mười- hoặc ăn chay liên tiếp ba tháng liền).
Ăn chay trường là cả đời ăn chay.
Ngày trước ăn chay là nhu cầu riêng của những người tu hành, nhưng lâu nay, ăn chay ngày càng được nhiều người mến mộ bởi ăn chay có thể chữa được một số căn bệnh, nhất là những bệnh mãn tính như béo phì, cao huyết áp..Ăn chay còn giúp cho chúng ta khoẻ mạnh và trường thọ, Chính vì vậy, nhu cầu các món chay ngày càng phong phú.
Nấu món chay qua nhiều công đoạn chế biến nhưng phải nhanh gọn. Chế biến phải có nghệ thuật, phù hợp khẩu vị, trình bày có thẩm mĩ. Phải biết điều chỉnh hợp lí các dưỡng chất, hương vị: Đạm,dầu, gia vị…để phát huy tác dụng của món của món chay.
Ngày nay theo một số tài liệu thì ăn chay đã có tới hàng trăm món khác nhau. Người Việt Nam có truyền thống khéo tay để làm nên các món ăn chay mang hương vị riêng, thay đổi từng bữa nên người ăn cảm thấy không bị nhàm chán mà vẫn rất hấp dẫn. Chính vì nhu cầu tăng và đa dạng về các món ăn chay mà ở một số thành phố lớn đã có nhiều nhà hàng chuyên làm món chay phục vụ khách rất nổi tiếng.Với tài nghệ của các đầu bếp Việt Nam, các món chay sẽ mang đầy hương vị riêng so với các món chay của các dân tộc khác.

Nguyễn Hạnh (Tổng hợp và sưu tầm).

LOỌC CHÚC - Cháo bồ dục hươu

Hươu là một loại thú rừng thịt ngọt ôn không độc, tính khá mạnh, bổ trung ích khí, khoẻ gân xương đồng thời chữa được chứng huyết băng, phong tà.

Hươu dùng được rất nhiều bộ phận mà quen thuộc nhất là Lộc giác 鹿角 tức sừng, Lộc nhung 鹿茸 tức sừng non và gần đây trong thực đơn ở nhiều nhà hàng cao cấp còn có cả gân hươu nữa. Nhưng còn một bộ phận mà chúng ta ít thấy được nhắc đến là đôi bồ dục của nó, chỉ được dùng trên các vùng rừng núi dân tộc. Người vùng cao cho rằng ăn cháo bồ dục hươu sẽ ôn dương bổ hư, chủ trị các chứng bệnh dương khí suy nhược, lưng gối mỏi đau, yếu gân cốt, chân tay sợ lạnh, đi lại khó khăn, lãnh cung không sinh đẻ được, liệt dương, xuất tinh sớm . Sau đây xin giới thiệu món cháo Loọc chúc của bà ngoại hay nấu cho ông tôi những ngày còn làm tri châu Lạng Sơn.

Thành phần:

Bồ dục hươu 鹿腎, Nhục thung dung 肉蓯蓉, gạo tẻ 硬米, gia vị.

Chế biến:

1. Bồ dục lọc bỏ màng, thái vừa ăn. Nhục thung dung tẩm rượu, thái nhỏ.
2. Nhục thung dung đun lấy nước, cho bồ dục hươu và gạo vào nấu cháo.
3. Khi cháo chín, thêm gia vị vừa đủ đem dùng nóng.

Đây là một món cháo bổ thận khí và chữa các chứng do thận hư rất hữu hiệu.

Nguyễn Hạnh.

Bánh Mướt xứ Nghệ

Có người nói: “Ăn uống là một loại văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên”. Bởi thế với những điều kiện môi trường khác nhau, mỗi địa phương đều có tập quán ẩm thực và món ăn đặc trưng phù hợp với phong thổ của mình. Ví như nem chua Thanh Hoá, bánh Phu Thê Bắc Ninh, bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày Quán Gánh, Bánh Răng Bừa Sơn Tây.v.v… Đi một vòng Bắc-Trung-Nam, người đi tìm hương vị món ăn không thể nào kể xiết.

Điều bài viết này muốn đề cập tới có liên quan đến một phần nhỏ trong văn hoá ẩm thực xứ Nghệ, nơi ta bắt gặp một loạt các danh từ từ Nhút Thanh Chương, Tương Nam Đàn, Ruốc Diễn Châu, Cà pháo Nghi Lộc, … Cho đến khoai Xéo, Rau lang, Hến sông Lam, Nghêu Phủ Diễn, Cá rô Bàu Nón, Cháo lươn Vinh, Bánh đúc Sa Nam, Rươi Hưng Nguyên, Chè xanh Thanh Thuỷ, Bánh gai Diễn Châu… Trong đó ai vào xứ Nghệ cũng không thể quên được một chút của Thanh Trì-Hà Nội phảng phất cái nét cương cường, khắc khổ của mảnh đất miền Trung nếu đã từng thưởng thức. Đó chính là Bánh Mướt.

Nói đến xứ Nghệ, một điều thống nhất đưa ra là: “…Nhất quyết không phải xứ sở của ăn chơi. Nhân dân anh hùng nơi đây lớn lên và sống cùng giặc giã, thiên tai, cho nên Bánh Mướt ra đời mang đặc thù tính cách của người Nghệ Tĩnh: Ăn to nói lớn. Tuy gọi là một chút của Thanh Trì nhưng không nhỏ nhẻ, mỏng manh như cái heo may ngoài Bắc, mà hào hứng nóng hổi như những ban mai đón cá về.

Chỉ ở Nghệ Tĩnh mới có bánh Mướt, thật ra chỉ là một biến dạng của bánh cuốn miền Bắc, cũng làm từ gạo xay, tráng nhân hành thịt nhưng đây là những chiếc bánh to hơn, dày dặn, quả trông như “Cái đòn xóc”. Bình thường một người chỉ cần ăn năm cái bánh Mướt là no, người khoẻ như ông hộ pháp thì cũng chỉ một tá là đủ. Nước chấm thật là đơn giản: Mắm ngon vắt chanh, pha ớt. Nếu như ở Thanh Trì chúng ta thấy những chiếc bánh mỏng trắng tinh điểm xuyết hành khô chao lửa quá bán thơm lừng, khi ăn kèm theo vài rẻo chả quế cắt ngọt thì ở đây bánh Mướt được cắt từng khoanh cho vào cùng thịt chó xào, ăn như bún xáo vậy. Ngoài ăn kèm thịt chó, bánh Mướt còn được chấm với xáo thịt cò băm viên với xả, ớt quấn lá gấc đun nước gừng hay ở chợ Dùng người ta ăn kèm với nước canh mọc thịt gà nấu đậm.

Có một lối ăn bánh Mướt kẹp với bánh Tráng ăn kèm với giò chả chấm nước mắm tỏi, ớt gọi là bánh Cặp hay bánh Đập Bẹt phổ biến ở Hà Tĩnh. Có hàng chục quán bánh Cặp ở thị xã nhỏ này mà nổi tiếng phải nói đến quán bà Quế được nhiều người lâu nay nhắc đến. Nghe nói bà chủ quán làm nghề từ lúc bảy, tám tuổi và nhờ nghề này mà bà đã xây được nhà cửa, nuôi con ăn học nên người. Nhiều người về đây công tác cũng đến quán nghèo của bà ăn bánh. Họ bảo, nhớ Hà Tĩnh, tức là nhớ quán bánh của bà.

Nhiều nơi ở xứ Nghệ làm bánh Mướt. Có thể thấy thức bánh này ở khắp các quán xá dọc đường cùng với bánh Đúc, Bún, kẹo Cu Đơ… Nhưng chỉ có một làng được nhiều người biết đến: Làng Quy Chính, gần chợ Sa Nam (Thị trấn Nam Đàn). Bà con ở đây gọi làng
này là “Làng Bánh Mướt”.

“ Ai về chợ huyện Sa Nam,
Nhớ ăn bánh Mướt cô nàng đong đưa.
Ăn năm cái bánh no vừa,
Ăn mươi chiếc bánh no cả trưa lẫn chiều.
Ăn rồi anh ngỏ lời yêu,
Cô nàng cắp thúng mà theo anh về.
Anh ăn bánh Mướt chán ghê,
Cô nàng tủm tỉm: “Đây là nghề nhà tui”!

Ở làng Quy Chính, người ta cày cấy là chủ yếu, làm bánh Mướt là nghề phụ, ấy thế mà dân lại phát tài về nghề này. Tivi, Radio, Cày bừa, trâu bò cũng từ đây mà ra cả.

Nghề làm bánh Mướt có từ lâu lắm rồi, ấy vậy mà có thời làm công khoán, nghề bị bỏ bê, chỉ lác đác vài người già theo đuổi. Nghề khôi phục lại mới hơn mười năm nay. Làng xóm nhộn nhịp, bánh Mướt nghe nói trở thành đặc sản, có trong menu của khách sạn lớn. Thậm chí lên mạng tra vào Google còn thấy cả quảng cáo thiết bị tráng hấp bánh Mướt nữa. Nhu cầu cao, tiến độ cao,nghề làm bánh Mướt giờ đây trong không khí sôi sục không còn được xay bằng cối đá như xưa mà là xay máy, tuy không ngon bằng xay tay nhưng giải quyết được phần năng suất.

Càng thu nhập cao, bà con càng vui thú sản xuất. Khoảng gà gáy canh ba, cả làng đã đỏ điện, nơi nơi đãi gạo, rộn tiếng vỗ rá, tiếng máy xay…Gà gáy canh năm là đã có mẻ bánh mang ra chợ để từ mờ sáng, có hôm đến tận chiều cứ đều đều hai công đoạn: Tráng và bán bánh. Đấy là chưa nói có những hôm đột xuất tiệc tùng, hội họp, đám cưới hỏi, người tiêu dùng còn “Tá vấn” tận nhà, công việc lại thêm phần bận rộn.

“Bánh Mướt Quy Chính đây!”...
...Tiếng rao đậm âm hưởng Thanh Nghệ báo hiệu bình minh đẹp lại về của một làng nghề.

Nguyễn Hạnh.

Lươn nồi đất

Ở Nhật Bản, những tháng hè người ta gọi là Thổ Dụng tức tháng nồi đất, thời gian đó họ thường ăn món lươn om trong nồi đất để giải khát trừ phiền. Ở Việt Nam, người ta thích nhất món lươn tháng 8.

Ngoài chợ, các bà các chị say như điếu đổ những chú lươn vàng óng, hứa hẹn chất thịt nhuần nhị và lành đất nặn. Những chú lươn này phải được nấu với củ chuối hột non rửa sạch, gọt bỏ vỏ bên ngoài, thái nhỏ thành sợi sau đó đem ngâm với nước lã cho đỡ thâm và chát.

Lươn sau khi tuốt nhớt, làm sạch, rồi chặt từng khúc ngắn, khoảng một đốt ngón tay. Củ chuối thái nhỏ, rửa sạch rồi ướp với mẻ một lúc cho ngấm, trộn với vỏ quýt, mắm tôm, ớt, hành, nước củ nghệ lọc rồi sau đó cho thêm một ít nước, bắc lên bếp đun sôi.
Có một cách bung cực kì kiệm lửa và nhanh chóng là khi lươn sôi đến độ, người ta tắt bếp cho lươn và củ chuối om trong nồi đất, sau đó để nguội bật lại đun đến khi chín bắc ra cho thêm hành và rau thơm thái thật đẹp. Mùi vị ngọt đậm hoà quyện của các gia vị thật quyến luyến, khó quên. Đừng ngại gì ăn kèm theo hạt tiêu sọ và ớt quả để thấy cái cay tuy giàn dụa mà nóng hổi, ngất ngây.

Lươn om nồi đất là một món ăn dân dã và tốt cho sức khoẻ. Nhấp một chén rượu thanh thanh, húp một muôi nước đang bùng lên sùng sục, tưởng như ta hoá thành Yết Kiêu, Dã Tượng thuở nào.

Ngày nay nhiều nơi người ta ăn lươn om với chuối xanh, cà xanh-một biến tướng của lươn của chuối om nối đất.

Nguyễn Hạnh

DƯ VỊ ĐỒNG QUÊ

Có một món ăn gắn liền với những công trình xây dựng, dưới chân bể nước các khu tập thể thời bao cấp đầy khó khăn nhưng mang dư vị ngọt ngào thực sự.

Đó là món chả làm từ thịt ếch, nhái hay chão chuộc mà hơn chục năm về trước những người bố làm nghề công chức hay làm cho con trai mình ăn để bổ sung chất vôi cần thiết cho cơ thể.

Ngày ấy cứ chín mười giờ tối, hàng đoàn người hông đeo giỏ, tay đốt lốp cao su túa đi các ngõ ngách trong khu tập thể bắt vồ ếch, nhái. Thường thì chỉ vài tiếng sau, trong giỏ nằng nặng là đã đủ để làm một chầu băm viên cho những thằng nhóc bình minh háu đói.

Tôi nhớ cha tôi thường cứ chiều chiều là vác một chiếc cần câu gài hoa mướp vàng, loáng cái đã có vài chú chẫu chuộc trong ruộng rau muống ngon lành rán bột.
Cái vị ngon giòn ứa ra từ cái sắc vàng cháy cạnh ấy làm tôi còn nhớ mãi. Có lần đến Thượng Hải, nếm món ếch nướng ống tre mà lòng cứ rưng rưng, vừa tấm tắc lại yêu lắm một thời thơ ấu.

Ngày nay thì ếch nhái lại được các hàng quán chế biến ra thành 7 món khác nhau., trong đó món chả nhái ngon nhất, nhưng cũng cầu kỳ nhất. Một người bạn của tôi là anh Hưng, người làng Khương Thượng cứ ếch nhái bắt về là băm thật nhỏ, giã nhuyễn, sau đó trộn với nước mắm, bột ngọt, sả ớt, lá chanh thái vụn, trộn một chút bột cho vào chảo mỡ đang sôi, một chai rượu Cuốc Lủi là gọi điện cho anh em lục tục kéo đến. Dường như món nhắm quá ngon, lần nào nhậu kềnh càng ai cũng tranh nhau chiếc đùi nhái tẩm bột rán giòn đẫy đà trước con mắt ghen tị của những ông bạn…

Hà Thành từ lâu nổi tiếng chả nhái Khương Thượng vừa dạn dĩ lại đậm đà như gái một con. Bây giờ, chẳng phải đi đâu xa, những quán rượu trong phố luôn có những đĩa nhái chiên giòn phục vụ quí khách.

Cơ chế thị trường thay đổi, làng Khương Thượng giờ chỉ còn 4-5 nhà giữ được nghề truyền thống. Thật may là nếu chịu khó vòng vèo, bạn vẫn có cơ hội thưởng thức món “ Thịt gà trên cánh đồng năm tấn”.

Nguyễn Hạnh

Phở Cuốn

Mấy năm gần đây, người ta thấy xuất hiện một món ăn rất được ưa chuộng: Phở cuốn.
Nếu ai đã vào vùng Thanh Nghệ, chắc hẳn không thể quên món bánh Mướt, để rồi về Hà Nội sẽ cứ ngẩn ngơ như mất của, không biết đến bao giờ mới lại được nếm lại “Đôi môi cô gái cố nhân”.
Có phải với những trăn trở như thế, xuất phát từ món Phở chan gia truyền, anh Việt, chủ quán phở Ngũ Xã đã cho ra đời món bánh phở cuốn thịt bò chấm nước mắm, có thể làm vợi đi nỗi nhớ những dư vị miền Trung. Chỉ qua hai năm, hàng loạt quán phở cuốn đã ra đời.
Có một kỉ lục đáng nhẽ phải được ghi vào sách vở, đó là thành tích được lập bởi chị Bền, cũng là người bán phở nơi đây với sức cuốn 50 cái bánh trong năm phút.
Là một người yêu thích ẩm thực, tôi đã lặn lội và ghi chép được cách làm món ăn giản dị này. Vào những lúc rỗi rãi, ngày nghỉ, cuốn hai ba chục chiếc bánh là đã có thể mời bạn hữu cùng nhấm nháp chia vui. Món ăn rất ngon và dễ vào. Có những lúc tôi đã đề ra một tiêu chuẩn chọn vợ là phải biết làm món ăn khoái khẩu này.
Phở chọn thức bánh mỏng và dai, cắt miếng bằng viên gạch lát nền vuông 20cm. Phi hành tỏi, thịt bò ướp gia vị bỏ vào chảo to lửa đảo đều tay cho giòn, khi đĩa bắc ra còn nghi ngút nóng, ém vài miếng gọn gàng với hành mùi, xà lách, rau thơm..., cuộn tròn lại, chấm với nước chấm nem hay bánh gối. Vị ớt cay nóng sẽ làm bạn thấy ấm lòng trong những ngày giá lạnh.
Với 15.000 đồng là bạn đã có thể tự tin đãi bạn gái với món ăn phở cuốn mới mẻ.

Nguyễn Hạnh

TỤC ĂN CÔN TRÙNG

Ngày nay trên thế giới việc ăn côn trùng đã trở thành phổ biến và được coi là thú ẩm thực nguyên thuỷ và bổ dưỡng. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng thức ăn công trùng có thành phần dinh dưỡng cao, chất đạm từ 42 đến 67% và có 28 loại AcidAmin, ngoài ra nó còn có nhiều sinh tố và khoáng chất.
Ở các nước Châu Âu món ăn này được bán với giá rất đắt.Thế nhưng chúng ta không biết rằng tục ăn côn trùng này đã có từ thời xa xưa, trong những cộng đồng người tại các vùng sơn quan hiểm trở.
Sách Tạp Trở của Tạ Tài Hàng nói: “ Người Nam Phương thích ăn những vị lạ. Đất Mân Châu có giống Long Sắt tức rận Rồng, thường bay ở ruộng nước,…Ở các vùng nước Yên, nước Tề, người ta hay ăn Cào Cào, Châu Chấu, các thứ sâu sắc vàng, khi đem nấu cỗ gọi là món Du Tử, rất quí”.
Sách Bị Nhã của Lục Điền cũng thấy ghi: “ Con Phù Du tức Con Vờ, trông giống như con Thiên Ngưu (Xén Tóc), có cánh cứng, dài ba bốn tấc, sắc vàng sẫm,…xưa người ta ăn mãi”.
Sách Tuyền Nam Chí nói: “ Con rận Rồng là một giống bọ sắc đen nhạt, bỏ vỏ cứng mà ăn thì ăn được, cũng có phong vị”.
Sách thuốc của lương y Tuệ Tĩnh có ghi loài Kiến (Nhất là Trứng Kiến) có tác dụng chữa bệnh Chá tức viêm tai, suy giảm chức năng sinh dục, tăng cường sinh lực, giải độc, điều trị rắn cắn…và rất nhiều tác dụng tốt nữa nếu biết cách kết hợp với các vị thuốc lá có trong tự nhiên. Như vậy có rất nhiều loài côn trùng có thể sử dụng được sử dụng trong ẩm thực và các bài thuốc y học cổ truyền.
Châu Chấu, Trứng Kiến, Bọ xít đã được trở thành món ăn từ lâu đời nhưng nó không phổ biến rộng rãi mà chỉ ở quy mô nhỏ theo phong tục và tục lệ của từng vùng nhỏ, nhất là các vùng dân tộc, được coi là món đặc sản tiêu biểu.
Ngày nay, các món ăn côn trùng đã phổ biến ở các quán Rượu Dân Tộc Hà Nội.

Nguyễn Hạnh

Rượu Cẩm Kinh Bắc

Làng Cẩm Giang nằm bên bờ sông Tiêu Tương gắn liền với huyền thoại Trương Chi - Mỵ Nương, ngày nay vẫn mang dáng dấp của một làng Việt cổ thuộc xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm Hà Nội 18 km về phía Đông Bắc.

Xưa làng Cẩm nổi tiếng nghề trồng lúa nước, dệt vải, và đặc biệt là nghề nấu rượu. Đầu thế kỷ 20, rượu Cẩm từng được thương nhân đưa sang chào bán ở Pháp và Châu Âu.
Rượu Cẩm thực chất là rượu nếp cái hoa vàng có một hương vị rất riêng , nấu hoàn toàn bằng phương pháp thủ công truyền thống. Rượu muốn thơm ngon trước hết phải có giống nếp cái hoa vàng nguyên gốc. Giống nếp thơm gieo trồng trên đất bãi phù sa màu mỡ ven bờ sông Tiêu Tương, khi lúa chín thu hoạch cho hạt chắc mẩy, vàng ươm. Bạn có thể thưởng thức rượu nếp cái hoa vàng của người dân làng Cẩm Giang ở bất kỳ một quán nhỏ nào ven đình làng, hay trên phố Viềng, phố Cẩm (thuộc thị trấn Từ Sơn); hoặc thưởng thức cùng các "liền anh, liền chị", thả hồn trong làn điệu dân ca quan họ mượt mà: "Tay tiên chuốc chén rượu đào/Sánh ra thời tiếc, uống vào thời say"...
Tò mò hỏi bí quyết nấu rượu Cẩm, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi dân làng chẳng những không giấu giếm mà còn tận tình chỉ vẽ một cách tỉ mỉ: Gạo nếp vo sạch, ngâm từ 6 - 8 giờ rồi đổ ra cho ráo nước. Men tán nhỏ mịn, loại bỏ lớp vỏ trấu bằng rây nhỏ. Bắc nồi đáy cho gạo vào đồ lần thứ nhất, khi nước nồi đáy sôi khoảng 10 - 15 phút, dậy mùi thơm, đổ ra rá, xả nước lạnh để hong trước gió cho khô. Cho vào chõ đồ lần hai, khi xôi mềm dỡ nhẹ tay nong, hong gió cho đến khi nguội hẳn. Lá sen trải vào rá (rổ) chọc vài lỗ thủng dưới đáy để trong quá trình ủ cho nước rượu chảy ra. Cứ một lớp xôi đồ rắc một lớp men thật đều sau đó đậy lá sen lên trên, ủ kín bằng chiếu buồm (hoặc nilon) sau 36 giờ là có thể ăn được rượu nếp. Để có rượu Cẩm, dùng rượu chưng cất thông thường 45 - 50o đổ vào rượu nếp rồi cho vào vò (hoặc chum có dung tích khoảng 100 - 150 lít) bưng kín bằng lá chuối khô và bằng vải lụa tơ tằm (theo phương pháp cổ truyền), đậy nắp sành, hạ thổ (chôn xuống đất) 100 ngày hoặc 365 ngày.
"Rượu Cẩm Kinh Bắc" không giống với một sản phẩm cùng loại trên thị trường. Thương hiệu thống nhất, bình hoặc nậm rượu thuần Việt bằng chất liệu gốm Bát Tràng, màu sắc cùng họa tiết hoa văn giàu chất dân gian, kiểu dáng, mẫu mã đa dạng... Rượu Cẩm dùng thường xuyên một cách điều độ có tác dụng tăng cường sinh lực, đặc biệt nếu hòa mật ong một lượng thích hợp còn có tác dụng trị chứng nổi ban mề đay, sẩn ngứa.


Theo Doanh nhân ( Nguyễn Hạnh chọn lọc từ Website Tứ Hải Quán: http://tuhai.com.vn)

HẸN VƯỜN XƯA

Lối mòn nào chẳng còn đậm màu nâu
Bước đi về đau cỏ xanh chắn lối
Cổng tre buồn nhớ những bàn tay
Mạng nhện chăng dấu xưa người đẩy

Khi mảnh vườn qua thời con gái
Tấm gương ao bèo đã phủ vội vàng
Góc phấn sương ngừng soi gian dối
Nào đã già chưa nào đã muộn màng!?

Chỉ có một tuổi thơ lỗi hẹn
Kỉ niệm đầu giấu một nhành hoa
Đã xa rồi người xa thu ấy
Mang theo lời hứa quê nhà.


Nguyễn Hạnh ( Bài thơ đã được dùng làm chất liệu trong truyện TÌNH BÉ CON cùng tác giả).