有木名淩霄
擢秀非孤標
Hữu mộc danh Lăng Tiêu
Trạc tú phi cô tiêu…
(Có cây tên Lăng Tiêu,
Đẹp đẽ đứng dựa vào nhau…)
Câu thơ trong bài Lăng Tiêu Hoa của Bạch Cư Dị khiến người ta nhớ đến một loài hoa tuy nhỏ bé thôi mà hữu ích. Trong bài thơ, tác giả đã “ Nhắn gửi với người lập thân, không nên học theo giống hèn yếu ấy” (Ký ngôn lập thân giả, vật học nhu nhược miêu). Thế nhưng xét về mặt y học, loài người chúng ta đã phải cảm ơn nó rất nhiều.
Sách cổ chép rằng Lăng tiêu vị chua tính lạnh, hoa làm lương huyết, chống ứ. Rễ và cành có công dụng trừ phong hoạt huyết, tiêu thũng giải độc. Lá có công dụng trị ung thũng (臃腫). Từ lâu trong dân gian đã biết đến khoảng bắt đầu tháng 6 cho đến 2 tháng sau là mùa có thể thu hoạch hoa Lăng Tiêu. Đến những ngày này, người nông dân chọn hái những hoa đã nở lớn, phơi khô và đem cẩt. Rễ và cành thu hoạch vào mùa thu rồi đem sao vàng làm thuốc. Thông thường hoa Lăng Tiêu thường có những ứng dụng như sau:
Viêm dạ dày ruột cấp tính: Rễ Lăng Tiêu 30 g, gừng tươi 3 lát, sắc uống hằng ngày.
Lỵ cấp tính, viêm gan vàng da: Rễ và lá Lăng Tiêu mỗi thứ 15 g, sắc uống.
Đại tiện ra máu tươi: Hoa Lăng Tiêu ngâm rượu uống.
Đau bụng nổi cục do co thắt dạ dày, ruột: Hoa Lăng Tiêu 60 g, đương quy 30 g, nghệ đen 30 g. Tất cả sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5 g.
Chảy máu cam: Hoa Lăng Tiêu rửa thật sạch, nghiền nát, vắt lấy nước cốt, nhỏ mũi.
Trứng cá đỏ: Hoa Lăng Tiêu, mật đà tăng lượng vừa đủ, sấy khô tán bột, bôi vào nơi tổn thương hoặc dùng hoa Lăng Tiêu 9 g, chi tử 9 g tán bột uống hằng ngày.
Bế kinh: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6 g với nước cơm ấm. Hoặc hoa Lăng Tiêu 12 g sắc kỹ lấy nước bỏ bã, hòa thêm 12 g a giao nướng phồng, uống cùng một chút rượu vang.
Kinh nguyệt không đều: Hoa Lăng Tiêu 9 g, hoa hồng 9 g, ích mẫu thảo 15 g, đan sâm 15 g, hồng hoa 6 g, sắc uống.
Khí hư: Rễ Lăng Tiêu tươi 30 g, đại kế tươi 15 g, trứng gà 1 quả, sắc kỹ, uống nước ăn trứng.
Rong kinh: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 3-6 g với nước ấm hoặc rượu nhạt.
Viêm loét âm đạo: Hoa Lăng Tiêu lượng vừa đủ, sắc lấy nước ngâm rửa.
Trẻ em đi lỏng: Rễ hoặc lá Lăng Tiêu tươi 9-15 g, vỏ gừng 1,5 g, sắc uống.
Nấm da: Hoa Lăng Tiêu tươi 60 g, rễ tươi 30 g, lá tươi 15 g. Tất cả giã nát đắp lên tổn thương.
Rắn cắn: Rễ Lăng Tiêu tươi 125 g sắc với rượu uống. Bên ngoài dùng rễ tươi giã nát đắp vào vết cắn.
Bỏng: Rễ Lăng Tiêu lượng vừa đủ, mài với nước thành dạng hồ rồi đắp vào tổn thương, mỗi ngày 3-4 lần.
Gãy xương: Vỏ rễ Lăng Tiêu tươi và vỏ rễ thanh táo (tiếp cốt thảo nam) lượng bằng nhau, giã nát, sao nóng với rượu, để nguội bớt rồi bó vào chỗ xương gãy.
Bong gân: Dùng lá hoặc hoa Lăng Tiêu tươi 2 phần, tôm đồng tươi 1 phần. Hai thứ giã nát, sao nóng, đắp vào nơi tổn thương.
Ngoài ra, Bệnh nhân nổi mề đay có thể dùng hoa Lăng Tiêu 9 g sắc uống và 30 g nấu nước ngâm rửa. Cũng có thể dùng hoa này để điều trị bệnh chàm: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, trộn với một chút phèn phi, rắc lên tổn thương”.
CHÚ Ý: Những người có thể chất suy nhược, khí huyết hư yếu và phụ nữ có thai không được dùng Lăng Tiêu.
Nguyễn Hạnh
(Theo tài liệu Đông Y)
Thứ Ba, 10 tháng 7, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét