Thứ Năm, 1 tháng 11, 2007

PHỒN THỰC

Ánh mặt trời đa dâm,
Hôn mãi bầu vú tròn...
Trái Đất...
Vắng rừng xanh...
...Trần trụi...!
Nhật thực không e ngại...!
Đắp chăn đêm ân ái Chị Hằng...!

Bởi sinh tồn Âm Dương...
Lẽ đời là như thế...
Anh yêu Bà Nữ Oa!!!
Em tìm Ông Tứ Tượng!!!

Hỏi cây Chò Chỉ cao muôn trượng!
Rễ đời bắt từ đâu???
Mong tình yêu đôi lứa...
Hoá rừng xanh mai sau!!!

Đêm nay...
Ôm em trong đêm sâu...
Hôn em cái hôn của ngàn ngày...
Nụ hôn mong mỏi của rừng xanh...
...Phồn thực!!!

Nguyễn Hạnh

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2007

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2007

TỨ HẢI QUÁN

Tứ Hải quán


Những giây phút thư giãn thú vị tại Tứ Hải quán.


Bài trí độc đáo trong
Tứ Hải quán.


Phút thư giãn của ông chủ Tứ Hải quán.

Quán Tứ Hải (quận Tây Hồ – Hà Nội) là sự kết hợp hài hòa của những ngôi nhà lá theo hệ thống liên hoàn, mang đậm dấu ấn của làng quê xưa, điểm đến cho những ai muốn thưởng thức nét độc đáo trong nghệ thuật ẩm thực của Việt Nam.

Một trong những điểm nhấn cơ bản trong quần thể kiến trúc của quán Tứ Hải là nhà nghỉ được làm bằng tre, gỗ, lợp cói khô, lối kiến trúc đặc trưng của làng Việt cổ: Thổ Hà, Đường Lâm... Bất cứ ai đã từng đặt chân đến Tứ Hải quán đều cảm nhận được là vẻ thanh bình, dân dã với những giây phút thư giãn thú vị, điều khó có thể tìm thấy ở chốn đô thị bụi bặm và ồn ã. Nơi đây đã là địa chỉ quen thuộc của nhiều nhóm anh em, bạn bè tụ họp ngày nghỉ cuối tuần, hay những người làm ăn xa xứ lâu ngày, tìm lại những nếp nhà lá, những bữa cơm quê thân quen thuở nào thưởng thức những làn quan họ Bắc Ninh duyên dáng, hay một khúc ca trù, một tích chầu văn... đưa con người vào chút hư ảo.

Tại Tứ Hải quán, khách hàng được thưởng thức những món ăn dân tộc được làm theo đúng cách truyền thống, cùng với hàng chục loại rượu dân tộc cổ truyền. Là người tinh thông y lý, biết bốc thuốc chữa bệnh, anh Trịnh Vân Hải, chủ nhân của Tứ Hải quán đã lang thang khắp các phố Lãn Ông, Thuốc Bắc, nơi chuyên bán dược liệu đông y đưa về những thang thuốc đã đóng đủ vị, tạo ra những bình rượu thuốc độc đáo giúp bồi bổ sức khỏe và có hương vị khó quên.

Chẳng phải là một thú chơi ngông, mọi người nhìn vào Tứ Hải quán, có thể thấy nó rất lớn nhưng đó chưa phải là tất cả dự định mà Hải ấp ủ. “Tôi đã đầu tư rất nhiều thời gian, trí tuệ vì quan trọng là cái tâm và tình yêu đối với nghệ thuật truyền thống. Làm như vậy, trước tiên là mình được hưởng, được cùng bạn bè khắp cả nước, rồi cả người nước ngoài cũng đến đây và chia vui với tôi, đó là niềm hạnh phúc” – anh Hải tự hào.

Tứ Hải quán có khuôn viên trên 600 m2, luôn mở cửa đón bất cứ ai. Chủ quán Trịnh Vân Hải sẵn lòng đón bạn bè về ngao du, sẵn lòng tự tay nấu những bữa cơm đãi khách, chuyện trò cho khách luôn cảm thấy gần gũi thân tình. Anh Hải còn đón các văn nghệ sĩ ăn ở tại đây để sáng tác, bằng một lòng hào phóng và đôn hậu. Nhiều khi anh đi lại phục vụ hăm hở như một nhân viên thực thụ, người lạ không ai nhận ra anh là chủ, cứ theo thói thường dõi mắt tìm một ông chủ quán Tứ Hải nào đó.


Một Tứ Hải quán giữa Hà thành mang đậm hồn quê.



Bài: Trí Công Ảnh: Thành Đạt

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2007

Khúc ưu tư số I

Mưa rơi rơi hay đôi hàng lệ lá
Giọt giọt âm thầm cho mặt đất nhớ mong!?
Mưa rơi rơi hay đôi hàng xuyên tim lá?!
Đỏ máu thu tê tái cánh lòng!!!

Đã bao đêm mưa rơi theo tình sử...
Tim lá vàng gió bão cuốn trôi...
Để từng thu là từng lần lá úa,
Cho lá xanh giấu vị đắng trên môi!!!

Nguyễn Hạnh

Gà - Vị thuốc bổ

Sách Y Tông Tâm Lĩnh ghi:

HÙNG KÊ NHỤC là thịt gà Trống: Không độc, ngọt ôn, động khí phong, Bổ trung, điều Vinh cùng dưỡng Vệ. Yên thai nối xương, tê dại thông.

THƯ KÊ NHỤC là thịt gà Mái: Vị chua, khí bình không độc mấy, Trừ thấp, phong hàn, bổ Ngũ lao, Bị thương, gẫy, tích khối, băng đới.




Như vậy qua đó ta thấy gà là một loại thịt rất bổ, phòng chống được chúng Ngũ Lao tức là chứng lao của năm tạng Tâm, Can, Tỳ, Thận, Phế thế cho nên có rất nhiều món ăn bài thuốc được chế biến từ gà:


Gà ác tiềm thuốc Bắc :


Gà ác nhỏ, lông trắng nhưng da ,thịt, xương đều đen thuộc giống Gallus bankiwa, máu đỏ hơn gà thường, chứa nhiều lysin. Theo Nam Dược Thần Hiệu thì xương gà ác vị ngọt, tính bình không độc, chữa hư nhược, phụ nữ băng huyết, bạch đới, đau bụng và trẻ em đi lị, không ăn được. Thịt gà ác được ưa chuộng vì bổ dưỡng, thường dùng cho người suy nhược, dưỡng bệnh, sản phụ mới sinh, hầm chung với toa thuốc bắc bổ dưỡng (hoài sơn, sinh địa, sâm, táo tàu...). Nếu kết hợp với tam thất, mật ong thì nó trở thành một món ăn bổ dưỡng không kém gì nhân sâm.

Thịt gà ác giàu axit amin, canxi, photpho, sắt, protid, lipid. Trứng tuy nhỏ nhưng tỷ lệ lòng đỏ cao đến 34%. Thịt gà ác trị thận suy, đau lưng, ra mồ hôi trộm, chân tay yếu mỏi,rất tốt cho người mới ốm dậy, phụ nữ sau khi sinh.

Gà dùng làm thuốc :

Món gà ác chưng ngũ vị (hạt sen, đại táo, đậu ván trắng, hoài sơn, mộc nhĩ) là món ăn phối hợp các chất bổ dưỡng, mạnh tì vị, giúp ăn ngon, giúp người suy nhược nhanh hồi phục .Trong đó, gà ác là nguồn protein lành, không gây dị ứng; hạt sen dưỡng tâm, bổ tì, cố tinh, trị mất ngủ, suy nhược cơ thể. Đại táo bổ dưỡng, ích khí, tồn thần, tiêu viêm, điều hòa các vị thuốc khác. Hoài sơn thanh nhiệt, ích thận, giải độc. Đậu ván trắng tức bạch biển đậu bổ tì vị, giải nhiệt trị biếng ăn, giải độc.

Gà ta bổ dưỡng hơn gà công nghiệp vì được nuôi thả, thường xuyên hoạt động nên cơ bắp săn chắc. Gà thả rong thường bới đất kiếm ăn, có được những chất cần thiết cho sự phát triển như sinh tố, khoáng chất...
Trứng gà:


KÊ TỬ THỰC gọi quả trứng gà,
Ngọt mà không độc, tính điều hoà.
Giã độc, bổ trung, tiêu chữa lị,
Yên thai, tê dại, mụn ngoài da.


Lòng đỏ trứng chứa nhiều vitamin B1, B2, PP, A, D. Trong một quả trứng, lượng vitamin D gấp 3 nhu cầu hằng ngày. Nhược điểm của lòng đỏ trứng là giàu cholesterol, gây xơ vữa động mạch, dẫn đến cao huyết áp hoặc tai biến mạch máu não. Đậu phụ chứa lexitin chống hình thành cục máu đông nên làm giảm tác hại của cholesterol. Cà chua có các chất chống oxy hóa, ngăn cản sự xơ vữa thành mạch và chống lão hóa, làm giảm các bệnh tim mạch. Hai thành phần này vừa làm tăng tác dụng bổ dưỡng của trứng gà vừa làm giảm tác dụng phụ do trứng mang lại.


Một loại thuốc bổ được chế tạo từ tinh chất gà đã xuất hiện trên thị trường với tính chất chống viêm và chống sự xâm nhiễm của virus. Nó được gọi là Essence of chicken, kích thích hệ miễn nhiễm, tăng cường khả năng phòng bệnh cho cơ thể chống lại cảm cúm, các bệnh nhiễm khuẩn khác, đồng thời làm giảm chứng huyết áp cao và ngăn chặn bệnh xơ vữa động mạch liên quan đến tuổi tác. Cách đây vài thập niên, thuốc bổ bào chế từ phôi trứng gà cũng rất được ưa chuộng.

Nguyễn Hạnh (Sưu tầm).

Cái Bình Vôi

Theo tín ngưỡng dân gian lâu đời của người Việt cổ, Cái Bình Vôi là hiện thân của ông thần giữ của và khi người ta không dùng nữa thường treo chúng ở gốc đa hay cạnh những ngôi đền.


Có người kể cái Bình Vôi lại là hậu thân của một nhà sư độc ác bị cành đa đâm thủng bụng. Theo đó thì miệng bình là chỗ bị cành đa đâm thủng và chìa vôi là cành đa. Hình dáng phình to tượng trưng cho thân thể bị chương sình. Chất vôi cay nồng nhồi trong bình được coi như lòng cay nghiệt thù oán của kẻ tu hành. Màu đỏ của trầu quệt trên miệng Bình Vôi là máu loang ở vết thương thấu tim gan và nhà sư hoá kiếp như thế là để đời đời kiếp kiếp phải bị người đời khoét khoáy tận ruột tận lòng cho xót xa đau đớn. Cũng theo tín ngưỡng đó thì mỗi lần thay Bình Vôi mới, người ta đem chúng ra bỏ ở các gốc cây đa. Cũng có nhà để lên bàn thờ một cách tôn kính hoặc có khi Ông Bình Vôi lại được đem thờ bằng cách đem đặt trên các tường ở đình hoặc chùa.
Loại qua cách giải thích theo tín ngưỡng nhà Phật thì Bình Vôi được coi là một Bà Chúa, tượng trưng cho uy quyền của bà chủ, liên quan đến phụ nữ trong nhà. Điều này thể hiện rõ ở bà mẹ chồng khi con dâu về nhà liền mang Bình Vôi tạm lánh ra ngoài ngõ, có nghĩa là tạm lánh mà vẫn nắm giữ Bình Vôi, tức uy quyền Bà chủ.
Những nơi nào có tục ăn Trầu đều có Bình Vôi. Nước ta khắp nơi đều có tục đó, cho nên sự xuất hiện của chúng là rất phổ biến.
Thường có hai loại Bình Vôi, đều được nặn bằng đất nung. Một thứ giống như cái hũ nhỏ, cổ thắt lại, miệng loa ra và một thứ tròn, có quai xách là nơi đôi khi có đeo một lưỡi dao để rọc dầu, có miệng về một bên. Ở chỗ miệng đó, mỗi lần cho vôi vào, còn gọi là “ Cho Ông Bình ăn”, các bà ăn Trầu lâu lâu lại đắp thêm vôi vào, cho nên cứ càng ngày trông càng dẩu ra như bị ăn vả vậy.Để cho ông Bình ăn, người ta dùng cái chìa vôi nhét vào miệng. Cái chìa vôi thường làm bằng tre, cũng có chìa vôi làm bằng sắt. Có người bảo cái chìa vôi đó mỗi tối nhất thiết phải rút ra để một nơi vì như thế trong lúc ngủ Ông Bình Vôi mới có miệng mà báo mộng cho mình, nếu không làm như thế thì cái chìa vôi lấp mất cái miệng thì không mách được. Bình Vôi xưa có màu lục hay màu vàng, nâu hay được tráng men xanh trắng, cũng có lúc để mộc như gạch. Ngày nay bên Bát Tràng, những Bình Vôi được tráng men xanh đỏ tím vàng sặc sỡ, loè loẹt.
Ngoài hai loại bình vôi trên, người ta còn thấy sự xuất hiện của những Ông Bình Vôi hình quả cau, hình trứng, hình con vịt, tắc kè, kỳ đà…với nhiều chất liệu đa dạng như sành, đá, đặc biệt là bằng đồng thau. Đó chính là những đồ vật rất quí và hiếm còn sót lại cho tới ngày nay. Tuy nhiên chúng chưa phải là những Ông Bình Vôi cổ nhất.
Theo các chuyên gia, những chiếc Bình Vôi đơn giản nhất lại là những hiện vật lâu đời nhất. Đó là những bình bằng đất sét nung cỡ nhỏ, tay cầm là một cành cây nằm vắt qua miệng bình, có đầu nhọn được chạm trổ đồ án hình quả cau hoặc hình rồng. Không biết chúng đã ra đời từ lúc nào cho nên từ đó điều cần thiết là phải có một đội ngũ chuyên viên nghiên cứu nghiêm túc tham gia trong việc truy nguyên những kho báu im lặng này.Như đã có một nhà sưu tầm Bình Vôi cổ đã từng bộc bạch: “…sưu tầm đồ cổ, bình vôi cổ là sưu tầm lịch sử, tìm về với lịch sử, về với bản sắc văn hóa dân tộc và cũng là tìm về với lịch sử của chính bản thân mình...”, việc tiến hành đào sâu nghiên cứu sẽ là chìa khoá mở ra nhiều tư liệu lịch sử nói riêng và KHXH nói chung vô cùng quý giá.
Để kết thúc bài này xin dẫn lại câu trong một bài báo: “ Với nhiều loại bình vôi, niên đại và nơi sản xuất vẫn đang còn là một dấu hỏi”.

Nguyễn Hạnh

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2007

ĐÊM TRĂNG

Thiếu nữ bất cần đời làm hư trăng còn dại.
Đánh cái bạo Thị Màu cho ngực áo hớ hênh.
Tưởng ấp e đâu tóc huyền che rủ kín...
Nhưng ô hay kìa ánh Nguyệt chiếu chênh chênh!!!

Có đám Cuội trò xuống phố,
Bộ cánh choai tơ phao câu chuốt mượt mà.
Bỏ chăn trâu lồng đi hát...
Thềm hạ hồ đồ ngắm gái nhà ta!

Có anh thợ đàn hiếu sắc,
Cởi yếm Nàng Thơ vụng trộm lảy tình.
Canh khuya nghe Hằng Nga bật khóc...
Chợt nhớ em yêu diệu vợi trái tim mình!!!

Nguyễn Hạnh (Kỷ niệm một đêm trăng).

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2007

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:
(Người là đấng thống trị tất cả lòng người)


Người là Đấng thống trị tất cả lòng người, Đấng ban vận nước, tên của Người làm cho cả nước phấn chấn: Punjab, Sind, Gujrat, Maratha, Dravida, Aurisa, Bengal, Vitina, Himalya, vang vang tiếng vọng. Sông Jumna, sông Hằng tấu nhạc, đáp lời, sóng nước Ấn Độ Dương hát bài ca, ca ngợi Người, chúc mừng Người, tất cả mọi người đều mong chờ Người, cứu giúp Người là Đấng thống trị tất cả lòng người, là Đấng ban vận nước, thắng lợi dưới tên Người. Hoan hô Jaya! Hoan hô Jaya! Hoan hô Jaya Jaya Jaya Jaya Jaya!
(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: " Quốc ca:


a/ Nước cộng hòa Islam đã được thành lập, chúng ta đã có tín ngưỡng, đã có chỗ dựa. Mưa to gió lớn của cách mạnh Iran đã lật đổ kẻ áp bức xuống bùn đen. Ý nguyện của nhân dân sẽ quyết định tương lai. Chúng ta có sức mạnh vô cùng, từ sự đoàn kết và tín ngưỡng. Chân Chúa dang tay ra với chúng ta, dẫn dắt ta đánh thắng quân thù, dưới sự che chở của Goran, Iran sẽ trường tồn với trời đất.
b/ Được máu nóng của các anh hùng tưới đẫm đóa hoa tự do nở khắp mọi nơi. Tiếng hát ngợi ca cao vút tầng mây, tên các chiến sĩ của Tổ quốc ghi tạc sử xanh. Tin vào tôn giáo của nước cộng hòa, chúng ta có sức mạnh vô biên. Giành lấy tự do và phúc lợi bằng vũ khí trong tay chúng ta. Những ngày khổ nạn đã đi qua, mặt trời hạnh phúc đã chiếu rọi. Dưới sự che ch�"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:


(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)<"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:


Nhân dân Lào ta từ xưa truyền lại nồng nàn yêu Tổ quốc, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nhất trí, sức mạnh vô biên. Vai kề vai, dũng cảm tiến lên, giữ gìn sự tôn nghiêm của Tổ quốc. Nhân dân các dân tộc bình đẳng với nhau, cùng làm chủ đất nước. Chúng ta quyết không để bọn đế quốc và bọn bán nước trở lại, đồng lòng bảo vệ Tổ quốc độc lập - tự do, mãi mãi không bị xâm lăng. Kiên quyết đấu tranh giành thắng lợi, để đất nước Lào phồn vinh thịnh vượng.
(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)
"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:


Nhân dân Lào ta từ xưa truyền lại nồng nàn yêu Tổ quốc, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nhất trí, sức mạnh vô biên. Vai kề vai, dũng cảm tiến lên, giữ gìn sự tôn nghiêm của Tổ quốc. Nhân dân các dân tộc bình đẳng với nhau, cùng làm chủ đất nước. Chúng ta quyết không để bọn đế quốc và bọn bán nước trở lại, đồng lòng bảo vệ Tổ quốc độc lập - tự do, mãi mãi không bị xâm lăng. Kiên quyết đấu tranh giành thắng lợi, để đất nước Lào phồn vinh thịnh vượng.
(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)
"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:


(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: " Quốc ca:


Tổ quốc tôi, nơi tôi sinh ra lớn lên, mong cho nhân dân của Người đoàn kết kiên cường, mong Thượng đế phù hộ cho Người được an khang, mong cho nguyên thủ thống trị bốn phương một cách hòa bình. Mong Thượng đế phù hộ cho Người được an khang, mong cho nguyên thủ thống trị bốn phương một cách hòa bình.
(Theo Nguồn gốc tên gọi các nước trên thế giới - NXB VHTT)"

Netcenter - Giáo dục

Netcenter - Giáo dục: "Quốc ca:"

Thứ Tư, 11 tháng 7, 2007

Ăn chay

Ăn chay là những tập quán ăn các món có nguồn gốc thảo mộc, hoa trái, không ăn những đồ ăn có nguồn gốc động vật để thực hiện đức hiếu sinh. Ăn chay chia ra làm hai loại chính: Ăn chay kỳ và ăn chay trường.
Ăn chay kỳ, là ăn chay có kỳ hạn nhất định trong một tháng hay trong một năm:
Nhị trai, ăn chay 2 ngày trong tháng (ngày 1 và 15 â.l.)
Tứ trai, mỗi tháng ăn chay 4 ngày ( 1,8, 15 và 23).
Lục trai, ăn chay sáu ngày mỗi tháng ( 1,8,14, 15,23, 29 và 30, nếu tháng thiếu lấy 28 và 29).
Thập trai, ăn chay mười ngày ( ngày 1,8,14,15,18,23,28,29,30, nếu tháng thiếu lấy các ngày 27,28,29).
Nhất nguyệt trai, ăn chay cả tháng( Tháng giêng hay là tháng bẩy â.l.).
Tam nguyệt trai, ăn 3 tháng chay( các tháng Giêng, Bảy, Chín, Mười- hoặc ăn chay liên tiếp ba tháng liền).
Ăn chay trường là cả đời ăn chay.
Ngày trước ăn chay là nhu cầu riêng của những người tu hành, nhưng lâu nay, ăn chay ngày càng được nhiều người mến mộ bởi ăn chay có thể chữa được một số căn bệnh, nhất là những bệnh mãn tính như béo phì, cao huyết áp..Ăn chay còn giúp cho chúng ta khoẻ mạnh và trường thọ, Chính vì vậy, nhu cầu các món chay ngày càng phong phú.
Nấu món chay qua nhiều công đoạn chế biến nhưng phải nhanh gọn. Chế biến phải có nghệ thuật, phù hợp khẩu vị, trình bày có thẩm mĩ. Phải biết điều chỉnh hợp lí các dưỡng chất, hương vị: Đạm,dầu, gia vị…để phát huy tác dụng của món của món chay.
Ngày nay theo một số tài liệu thì ăn chay đã có tới hàng trăm món khác nhau. Người Việt Nam có truyền thống khéo tay để làm nên các món ăn chay mang hương vị riêng, thay đổi từng bữa nên người ăn cảm thấy không bị nhàm chán mà vẫn rất hấp dẫn. Chính vì nhu cầu tăng và đa dạng về các món ăn chay mà ở một số thành phố lớn đã có nhiều nhà hàng chuyên làm món chay phục vụ khách rất nổi tiếng.Với tài nghệ của các đầu bếp Việt Nam, các món chay sẽ mang đầy hương vị riêng so với các món chay của các dân tộc khác.

Nguyễn Hạnh (Tổng hợp và sưu tầm).

LOỌC CHÚC - Cháo bồ dục hươu

Hươu là một loại thú rừng thịt ngọt ôn không độc, tính khá mạnh, bổ trung ích khí, khoẻ gân xương đồng thời chữa được chứng huyết băng, phong tà.

Hươu dùng được rất nhiều bộ phận mà quen thuộc nhất là Lộc giác 鹿角 tức sừng, Lộc nhung 鹿茸 tức sừng non và gần đây trong thực đơn ở nhiều nhà hàng cao cấp còn có cả gân hươu nữa. Nhưng còn một bộ phận mà chúng ta ít thấy được nhắc đến là đôi bồ dục của nó, chỉ được dùng trên các vùng rừng núi dân tộc. Người vùng cao cho rằng ăn cháo bồ dục hươu sẽ ôn dương bổ hư, chủ trị các chứng bệnh dương khí suy nhược, lưng gối mỏi đau, yếu gân cốt, chân tay sợ lạnh, đi lại khó khăn, lãnh cung không sinh đẻ được, liệt dương, xuất tinh sớm . Sau đây xin giới thiệu món cháo Loọc chúc của bà ngoại hay nấu cho ông tôi những ngày còn làm tri châu Lạng Sơn.

Thành phần:

Bồ dục hươu 鹿腎, Nhục thung dung 肉蓯蓉, gạo tẻ 硬米, gia vị.

Chế biến:

1. Bồ dục lọc bỏ màng, thái vừa ăn. Nhục thung dung tẩm rượu, thái nhỏ.
2. Nhục thung dung đun lấy nước, cho bồ dục hươu và gạo vào nấu cháo.
3. Khi cháo chín, thêm gia vị vừa đủ đem dùng nóng.

Đây là một món cháo bổ thận khí và chữa các chứng do thận hư rất hữu hiệu.

Nguyễn Hạnh.

Bánh Mướt xứ Nghệ

Có người nói: “Ăn uống là một loại văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên”. Bởi thế với những điều kiện môi trường khác nhau, mỗi địa phương đều có tập quán ẩm thực và món ăn đặc trưng phù hợp với phong thổ của mình. Ví như nem chua Thanh Hoá, bánh Phu Thê Bắc Ninh, bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày Quán Gánh, Bánh Răng Bừa Sơn Tây.v.v… Đi một vòng Bắc-Trung-Nam, người đi tìm hương vị món ăn không thể nào kể xiết.

Điều bài viết này muốn đề cập tới có liên quan đến một phần nhỏ trong văn hoá ẩm thực xứ Nghệ, nơi ta bắt gặp một loạt các danh từ từ Nhút Thanh Chương, Tương Nam Đàn, Ruốc Diễn Châu, Cà pháo Nghi Lộc, … Cho đến khoai Xéo, Rau lang, Hến sông Lam, Nghêu Phủ Diễn, Cá rô Bàu Nón, Cháo lươn Vinh, Bánh đúc Sa Nam, Rươi Hưng Nguyên, Chè xanh Thanh Thuỷ, Bánh gai Diễn Châu… Trong đó ai vào xứ Nghệ cũng không thể quên được một chút của Thanh Trì-Hà Nội phảng phất cái nét cương cường, khắc khổ của mảnh đất miền Trung nếu đã từng thưởng thức. Đó chính là Bánh Mướt.

Nói đến xứ Nghệ, một điều thống nhất đưa ra là: “…Nhất quyết không phải xứ sở của ăn chơi. Nhân dân anh hùng nơi đây lớn lên và sống cùng giặc giã, thiên tai, cho nên Bánh Mướt ra đời mang đặc thù tính cách của người Nghệ Tĩnh: Ăn to nói lớn. Tuy gọi là một chút của Thanh Trì nhưng không nhỏ nhẻ, mỏng manh như cái heo may ngoài Bắc, mà hào hứng nóng hổi như những ban mai đón cá về.

Chỉ ở Nghệ Tĩnh mới có bánh Mướt, thật ra chỉ là một biến dạng của bánh cuốn miền Bắc, cũng làm từ gạo xay, tráng nhân hành thịt nhưng đây là những chiếc bánh to hơn, dày dặn, quả trông như “Cái đòn xóc”. Bình thường một người chỉ cần ăn năm cái bánh Mướt là no, người khoẻ như ông hộ pháp thì cũng chỉ một tá là đủ. Nước chấm thật là đơn giản: Mắm ngon vắt chanh, pha ớt. Nếu như ở Thanh Trì chúng ta thấy những chiếc bánh mỏng trắng tinh điểm xuyết hành khô chao lửa quá bán thơm lừng, khi ăn kèm theo vài rẻo chả quế cắt ngọt thì ở đây bánh Mướt được cắt từng khoanh cho vào cùng thịt chó xào, ăn như bún xáo vậy. Ngoài ăn kèm thịt chó, bánh Mướt còn được chấm với xáo thịt cò băm viên với xả, ớt quấn lá gấc đun nước gừng hay ở chợ Dùng người ta ăn kèm với nước canh mọc thịt gà nấu đậm.

Có một lối ăn bánh Mướt kẹp với bánh Tráng ăn kèm với giò chả chấm nước mắm tỏi, ớt gọi là bánh Cặp hay bánh Đập Bẹt phổ biến ở Hà Tĩnh. Có hàng chục quán bánh Cặp ở thị xã nhỏ này mà nổi tiếng phải nói đến quán bà Quế được nhiều người lâu nay nhắc đến. Nghe nói bà chủ quán làm nghề từ lúc bảy, tám tuổi và nhờ nghề này mà bà đã xây được nhà cửa, nuôi con ăn học nên người. Nhiều người về đây công tác cũng đến quán nghèo của bà ăn bánh. Họ bảo, nhớ Hà Tĩnh, tức là nhớ quán bánh của bà.

Nhiều nơi ở xứ Nghệ làm bánh Mướt. Có thể thấy thức bánh này ở khắp các quán xá dọc đường cùng với bánh Đúc, Bún, kẹo Cu Đơ… Nhưng chỉ có một làng được nhiều người biết đến: Làng Quy Chính, gần chợ Sa Nam (Thị trấn Nam Đàn). Bà con ở đây gọi làng
này là “Làng Bánh Mướt”.

“ Ai về chợ huyện Sa Nam,
Nhớ ăn bánh Mướt cô nàng đong đưa.
Ăn năm cái bánh no vừa,
Ăn mươi chiếc bánh no cả trưa lẫn chiều.
Ăn rồi anh ngỏ lời yêu,
Cô nàng cắp thúng mà theo anh về.
Anh ăn bánh Mướt chán ghê,
Cô nàng tủm tỉm: “Đây là nghề nhà tui”!

Ở làng Quy Chính, người ta cày cấy là chủ yếu, làm bánh Mướt là nghề phụ, ấy thế mà dân lại phát tài về nghề này. Tivi, Radio, Cày bừa, trâu bò cũng từ đây mà ra cả.

Nghề làm bánh Mướt có từ lâu lắm rồi, ấy vậy mà có thời làm công khoán, nghề bị bỏ bê, chỉ lác đác vài người già theo đuổi. Nghề khôi phục lại mới hơn mười năm nay. Làng xóm nhộn nhịp, bánh Mướt nghe nói trở thành đặc sản, có trong menu của khách sạn lớn. Thậm chí lên mạng tra vào Google còn thấy cả quảng cáo thiết bị tráng hấp bánh Mướt nữa. Nhu cầu cao, tiến độ cao,nghề làm bánh Mướt giờ đây trong không khí sôi sục không còn được xay bằng cối đá như xưa mà là xay máy, tuy không ngon bằng xay tay nhưng giải quyết được phần năng suất.

Càng thu nhập cao, bà con càng vui thú sản xuất. Khoảng gà gáy canh ba, cả làng đã đỏ điện, nơi nơi đãi gạo, rộn tiếng vỗ rá, tiếng máy xay…Gà gáy canh năm là đã có mẻ bánh mang ra chợ để từ mờ sáng, có hôm đến tận chiều cứ đều đều hai công đoạn: Tráng và bán bánh. Đấy là chưa nói có những hôm đột xuất tiệc tùng, hội họp, đám cưới hỏi, người tiêu dùng còn “Tá vấn” tận nhà, công việc lại thêm phần bận rộn.

“Bánh Mướt Quy Chính đây!”...
...Tiếng rao đậm âm hưởng Thanh Nghệ báo hiệu bình minh đẹp lại về của một làng nghề.

Nguyễn Hạnh.

Lươn nồi đất

Ở Nhật Bản, những tháng hè người ta gọi là Thổ Dụng tức tháng nồi đất, thời gian đó họ thường ăn món lươn om trong nồi đất để giải khát trừ phiền. Ở Việt Nam, người ta thích nhất món lươn tháng 8.

Ngoài chợ, các bà các chị say như điếu đổ những chú lươn vàng óng, hứa hẹn chất thịt nhuần nhị và lành đất nặn. Những chú lươn này phải được nấu với củ chuối hột non rửa sạch, gọt bỏ vỏ bên ngoài, thái nhỏ thành sợi sau đó đem ngâm với nước lã cho đỡ thâm và chát.

Lươn sau khi tuốt nhớt, làm sạch, rồi chặt từng khúc ngắn, khoảng một đốt ngón tay. Củ chuối thái nhỏ, rửa sạch rồi ướp với mẻ một lúc cho ngấm, trộn với vỏ quýt, mắm tôm, ớt, hành, nước củ nghệ lọc rồi sau đó cho thêm một ít nước, bắc lên bếp đun sôi.
Có một cách bung cực kì kiệm lửa và nhanh chóng là khi lươn sôi đến độ, người ta tắt bếp cho lươn và củ chuối om trong nồi đất, sau đó để nguội bật lại đun đến khi chín bắc ra cho thêm hành và rau thơm thái thật đẹp. Mùi vị ngọt đậm hoà quyện của các gia vị thật quyến luyến, khó quên. Đừng ngại gì ăn kèm theo hạt tiêu sọ và ớt quả để thấy cái cay tuy giàn dụa mà nóng hổi, ngất ngây.

Lươn om nồi đất là một món ăn dân dã và tốt cho sức khoẻ. Nhấp một chén rượu thanh thanh, húp một muôi nước đang bùng lên sùng sục, tưởng như ta hoá thành Yết Kiêu, Dã Tượng thuở nào.

Ngày nay nhiều nơi người ta ăn lươn om với chuối xanh, cà xanh-một biến tướng của lươn của chuối om nối đất.

Nguyễn Hạnh

DƯ VỊ ĐỒNG QUÊ

Có một món ăn gắn liền với những công trình xây dựng, dưới chân bể nước các khu tập thể thời bao cấp đầy khó khăn nhưng mang dư vị ngọt ngào thực sự.

Đó là món chả làm từ thịt ếch, nhái hay chão chuộc mà hơn chục năm về trước những người bố làm nghề công chức hay làm cho con trai mình ăn để bổ sung chất vôi cần thiết cho cơ thể.

Ngày ấy cứ chín mười giờ tối, hàng đoàn người hông đeo giỏ, tay đốt lốp cao su túa đi các ngõ ngách trong khu tập thể bắt vồ ếch, nhái. Thường thì chỉ vài tiếng sau, trong giỏ nằng nặng là đã đủ để làm một chầu băm viên cho những thằng nhóc bình minh háu đói.

Tôi nhớ cha tôi thường cứ chiều chiều là vác một chiếc cần câu gài hoa mướp vàng, loáng cái đã có vài chú chẫu chuộc trong ruộng rau muống ngon lành rán bột.
Cái vị ngon giòn ứa ra từ cái sắc vàng cháy cạnh ấy làm tôi còn nhớ mãi. Có lần đến Thượng Hải, nếm món ếch nướng ống tre mà lòng cứ rưng rưng, vừa tấm tắc lại yêu lắm một thời thơ ấu.

Ngày nay thì ếch nhái lại được các hàng quán chế biến ra thành 7 món khác nhau., trong đó món chả nhái ngon nhất, nhưng cũng cầu kỳ nhất. Một người bạn của tôi là anh Hưng, người làng Khương Thượng cứ ếch nhái bắt về là băm thật nhỏ, giã nhuyễn, sau đó trộn với nước mắm, bột ngọt, sả ớt, lá chanh thái vụn, trộn một chút bột cho vào chảo mỡ đang sôi, một chai rượu Cuốc Lủi là gọi điện cho anh em lục tục kéo đến. Dường như món nhắm quá ngon, lần nào nhậu kềnh càng ai cũng tranh nhau chiếc đùi nhái tẩm bột rán giòn đẫy đà trước con mắt ghen tị của những ông bạn…

Hà Thành từ lâu nổi tiếng chả nhái Khương Thượng vừa dạn dĩ lại đậm đà như gái một con. Bây giờ, chẳng phải đi đâu xa, những quán rượu trong phố luôn có những đĩa nhái chiên giòn phục vụ quí khách.

Cơ chế thị trường thay đổi, làng Khương Thượng giờ chỉ còn 4-5 nhà giữ được nghề truyền thống. Thật may là nếu chịu khó vòng vèo, bạn vẫn có cơ hội thưởng thức món “ Thịt gà trên cánh đồng năm tấn”.

Nguyễn Hạnh

Phở Cuốn

Mấy năm gần đây, người ta thấy xuất hiện một món ăn rất được ưa chuộng: Phở cuốn.
Nếu ai đã vào vùng Thanh Nghệ, chắc hẳn không thể quên món bánh Mướt, để rồi về Hà Nội sẽ cứ ngẩn ngơ như mất của, không biết đến bao giờ mới lại được nếm lại “Đôi môi cô gái cố nhân”.
Có phải với những trăn trở như thế, xuất phát từ món Phở chan gia truyền, anh Việt, chủ quán phở Ngũ Xã đã cho ra đời món bánh phở cuốn thịt bò chấm nước mắm, có thể làm vợi đi nỗi nhớ những dư vị miền Trung. Chỉ qua hai năm, hàng loạt quán phở cuốn đã ra đời.
Có một kỉ lục đáng nhẽ phải được ghi vào sách vở, đó là thành tích được lập bởi chị Bền, cũng là người bán phở nơi đây với sức cuốn 50 cái bánh trong năm phút.
Là một người yêu thích ẩm thực, tôi đã lặn lội và ghi chép được cách làm món ăn giản dị này. Vào những lúc rỗi rãi, ngày nghỉ, cuốn hai ba chục chiếc bánh là đã có thể mời bạn hữu cùng nhấm nháp chia vui. Món ăn rất ngon và dễ vào. Có những lúc tôi đã đề ra một tiêu chuẩn chọn vợ là phải biết làm món ăn khoái khẩu này.
Phở chọn thức bánh mỏng và dai, cắt miếng bằng viên gạch lát nền vuông 20cm. Phi hành tỏi, thịt bò ướp gia vị bỏ vào chảo to lửa đảo đều tay cho giòn, khi đĩa bắc ra còn nghi ngút nóng, ém vài miếng gọn gàng với hành mùi, xà lách, rau thơm..., cuộn tròn lại, chấm với nước chấm nem hay bánh gối. Vị ớt cay nóng sẽ làm bạn thấy ấm lòng trong những ngày giá lạnh.
Với 15.000 đồng là bạn đã có thể tự tin đãi bạn gái với món ăn phở cuốn mới mẻ.

Nguyễn Hạnh

TỤC ĂN CÔN TRÙNG

Ngày nay trên thế giới việc ăn côn trùng đã trở thành phổ biến và được coi là thú ẩm thực nguyên thuỷ và bổ dưỡng. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng thức ăn công trùng có thành phần dinh dưỡng cao, chất đạm từ 42 đến 67% và có 28 loại AcidAmin, ngoài ra nó còn có nhiều sinh tố và khoáng chất.
Ở các nước Châu Âu món ăn này được bán với giá rất đắt.Thế nhưng chúng ta không biết rằng tục ăn côn trùng này đã có từ thời xa xưa, trong những cộng đồng người tại các vùng sơn quan hiểm trở.
Sách Tạp Trở của Tạ Tài Hàng nói: “ Người Nam Phương thích ăn những vị lạ. Đất Mân Châu có giống Long Sắt tức rận Rồng, thường bay ở ruộng nước,…Ở các vùng nước Yên, nước Tề, người ta hay ăn Cào Cào, Châu Chấu, các thứ sâu sắc vàng, khi đem nấu cỗ gọi là món Du Tử, rất quí”.
Sách Bị Nhã của Lục Điền cũng thấy ghi: “ Con Phù Du tức Con Vờ, trông giống như con Thiên Ngưu (Xén Tóc), có cánh cứng, dài ba bốn tấc, sắc vàng sẫm,…xưa người ta ăn mãi”.
Sách Tuyền Nam Chí nói: “ Con rận Rồng là một giống bọ sắc đen nhạt, bỏ vỏ cứng mà ăn thì ăn được, cũng có phong vị”.
Sách thuốc của lương y Tuệ Tĩnh có ghi loài Kiến (Nhất là Trứng Kiến) có tác dụng chữa bệnh Chá tức viêm tai, suy giảm chức năng sinh dục, tăng cường sinh lực, giải độc, điều trị rắn cắn…và rất nhiều tác dụng tốt nữa nếu biết cách kết hợp với các vị thuốc lá có trong tự nhiên. Như vậy có rất nhiều loài côn trùng có thể sử dụng được sử dụng trong ẩm thực và các bài thuốc y học cổ truyền.
Châu Chấu, Trứng Kiến, Bọ xít đã được trở thành món ăn từ lâu đời nhưng nó không phổ biến rộng rãi mà chỉ ở quy mô nhỏ theo phong tục và tục lệ của từng vùng nhỏ, nhất là các vùng dân tộc, được coi là món đặc sản tiêu biểu.
Ngày nay, các món ăn côn trùng đã phổ biến ở các quán Rượu Dân Tộc Hà Nội.

Nguyễn Hạnh

Rượu Cẩm Kinh Bắc

Làng Cẩm Giang nằm bên bờ sông Tiêu Tương gắn liền với huyền thoại Trương Chi - Mỵ Nương, ngày nay vẫn mang dáng dấp của một làng Việt cổ thuộc xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm Hà Nội 18 km về phía Đông Bắc.

Xưa làng Cẩm nổi tiếng nghề trồng lúa nước, dệt vải, và đặc biệt là nghề nấu rượu. Đầu thế kỷ 20, rượu Cẩm từng được thương nhân đưa sang chào bán ở Pháp và Châu Âu.
Rượu Cẩm thực chất là rượu nếp cái hoa vàng có một hương vị rất riêng , nấu hoàn toàn bằng phương pháp thủ công truyền thống. Rượu muốn thơm ngon trước hết phải có giống nếp cái hoa vàng nguyên gốc. Giống nếp thơm gieo trồng trên đất bãi phù sa màu mỡ ven bờ sông Tiêu Tương, khi lúa chín thu hoạch cho hạt chắc mẩy, vàng ươm. Bạn có thể thưởng thức rượu nếp cái hoa vàng của người dân làng Cẩm Giang ở bất kỳ một quán nhỏ nào ven đình làng, hay trên phố Viềng, phố Cẩm (thuộc thị trấn Từ Sơn); hoặc thưởng thức cùng các "liền anh, liền chị", thả hồn trong làn điệu dân ca quan họ mượt mà: "Tay tiên chuốc chén rượu đào/Sánh ra thời tiếc, uống vào thời say"...
Tò mò hỏi bí quyết nấu rượu Cẩm, bạn sẽ rất ngạc nhiên khi dân làng chẳng những không giấu giếm mà còn tận tình chỉ vẽ một cách tỉ mỉ: Gạo nếp vo sạch, ngâm từ 6 - 8 giờ rồi đổ ra cho ráo nước. Men tán nhỏ mịn, loại bỏ lớp vỏ trấu bằng rây nhỏ. Bắc nồi đáy cho gạo vào đồ lần thứ nhất, khi nước nồi đáy sôi khoảng 10 - 15 phút, dậy mùi thơm, đổ ra rá, xả nước lạnh để hong trước gió cho khô. Cho vào chõ đồ lần hai, khi xôi mềm dỡ nhẹ tay nong, hong gió cho đến khi nguội hẳn. Lá sen trải vào rá (rổ) chọc vài lỗ thủng dưới đáy để trong quá trình ủ cho nước rượu chảy ra. Cứ một lớp xôi đồ rắc một lớp men thật đều sau đó đậy lá sen lên trên, ủ kín bằng chiếu buồm (hoặc nilon) sau 36 giờ là có thể ăn được rượu nếp. Để có rượu Cẩm, dùng rượu chưng cất thông thường 45 - 50o đổ vào rượu nếp rồi cho vào vò (hoặc chum có dung tích khoảng 100 - 150 lít) bưng kín bằng lá chuối khô và bằng vải lụa tơ tằm (theo phương pháp cổ truyền), đậy nắp sành, hạ thổ (chôn xuống đất) 100 ngày hoặc 365 ngày.
"Rượu Cẩm Kinh Bắc" không giống với một sản phẩm cùng loại trên thị trường. Thương hiệu thống nhất, bình hoặc nậm rượu thuần Việt bằng chất liệu gốm Bát Tràng, màu sắc cùng họa tiết hoa văn giàu chất dân gian, kiểu dáng, mẫu mã đa dạng... Rượu Cẩm dùng thường xuyên một cách điều độ có tác dụng tăng cường sinh lực, đặc biệt nếu hòa mật ong một lượng thích hợp còn có tác dụng trị chứng nổi ban mề đay, sẩn ngứa.


Theo Doanh nhân ( Nguyễn Hạnh chọn lọc từ Website Tứ Hải Quán: http://tuhai.com.vn)

HẸN VƯỜN XƯA

Lối mòn nào chẳng còn đậm màu nâu
Bước đi về đau cỏ xanh chắn lối
Cổng tre buồn nhớ những bàn tay
Mạng nhện chăng dấu xưa người đẩy

Khi mảnh vườn qua thời con gái
Tấm gương ao bèo đã phủ vội vàng
Góc phấn sương ngừng soi gian dối
Nào đã già chưa nào đã muộn màng!?

Chỉ có một tuổi thơ lỗi hẹn
Kỉ niệm đầu giấu một nhành hoa
Đã xa rồi người xa thu ấy
Mang theo lời hứa quê nhà.


Nguyễn Hạnh ( Bài thơ đã được dùng làm chất liệu trong truyện TÌNH BÉ CON cùng tác giả).

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2007

BỆNH VIỆN Y H ỌC CỔ TRUYỀN TRUNG ƯƠNG

TRUNG TÂM HỢP TÁC CỦA TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI VỀ YHCT

Ađress:29 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội - Việt Nam
Tel: (84-4) 8.263.616-(84-4) 9.434.462 * Fax: (84-4) 8.229.353
Email: yhcotruyen@hinet.net.vn
Website: www.yhcotruyentw.org.vn


Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương là bệnh viện đầu ngành về YHCT - Trung tâm hợp tác về y học cổ truyền (YHCT) của Tổ chức y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương. Bệnh viện có 22 khoa phòng, 2 trung tâm được chia thành 3 khối: lâm sàng, cận lâm sàng, và khối các phòng ban chức năng. Với đội ngũ các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa II, chuyên khoa I và các bác sĩ giàu kinh nghiệm, bệnh viện là cơ sở điều trị, nghiên cứu, và giảng dạy về YHCT lớn nhất trong cả nước.

Bệnh viện có 420 giường bệnh (270 giường bệnh nội trú và 150 giường bệnh ngoại trú), có các khoa lâm sàng nội, ngoại, phụ, nhi, châm cứu dưỡng sinh, người có tuổi, hồi sức cấp cứu, v.v..., có đầy đủ các trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu khoa học.

Trong gần 50 năm qua kể từ khi thành lập, với chức năng và nhiệm vụ chính là kế thừa, phát huy và phát triển YHCT, kết hợp YHCT với YHHĐ trong điều trị và dự phòng, bệnh viện đã đạt được rất nhiều thành tựu trong phát triển YHCT. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ và cơ sở nhằm đánh giá tính an toàn và hiệu lực của thuốc YHCT, nghiên cứu xây dựng qui trình bào chế và tiêu chuẩn hóa thuốc YHCT, nghiên cứu ứng dụng các phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc YHCT trong điều trị và dự phòng các bệnh thường gặp, các bệnh mạn tính, khó chữa...đã được thực hiện và được đánh giá cao tại nhiều hội nghị YHCT trong nước và quốc tế.

Với vai trò là trung tâm trao đổi thông tin trong và ngoài nước, hàng năm bệnh viện YHCT Trung ương xuất bản và phát hành tạp chí nghiên cứu Y dược học cổ truyền. Các chuyên gia và các bác sĩ của bệnh viện thường xuyên được cử đi nước ngoài để tham dự các hội nghị, hội thảo, giảng dạy, và nghiên cứu chuyên sâu. Bệnh viện cũng thường xuyên có nhiều chuyên gia, học sinh nước ngoài đến trao đổi kinh nghiệm, học tập, tìm hiểu và nghiên cứu về YHCT Việt Nam.

Trong tiến trình phát triển, hội nhập YHCT với các nước trong khu vực và thế giới, bệnh viện đang từng bước hiện đại hóa trên cơ sở giữ vững bản sắc của YHCT, kết hợp tinh hoa của hai nền YHCT và YHHĐ góp phần phục vụ cho sức khỏe cộng đồng ngày một tốt hơn.

Bệnh viện Y học Cổ truyền Trung ương là Trung tâm hợp tác duy nhất tại Việt Nam về YHCT của Tổ chức y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương từ năm 1988. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của Bệnh viện quan hệ hợp tác quốc tế không ngừng được củng cố và mở rộng. Bệnh viện có quan hệ hợp tác với trên 40 nước trên thế giới.

Lĩnh vực hợp tác:
- Hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin, trao đổi chuyên gia trong lĩnh vực YHCT.
- Tổ chức các hội thảo khoa học, tập huấn về YHCT và kết hợp YHCT với YHHĐ.
- Hợp tác trong công tác khám chữa bệnh.
- Huấn luyện giảng dạy cho học viên nước ngoài.
Đối tác:
- Văn phòng của tổ chức y tế thế giới khu vực Tây Thái Bình Dương
- Văn phòng đại diện của tổ chức y tế thế giới tại Hà Nội
- Các trung tâm hợp tác của tổ chức Y tế thế giới về YHCT.
- Các Viện nghiên cứu, bệnh viện, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các cá nhân.

NATIONAL HOSPITAL OF TRADITIONAL MEDICINE-WHO COLLABORATING CENTER FOR TRADITIONAL MEDICINE

The National Hospital of Traditional Medicine (TRM) is the leading hospital of traditional medicine for the whole country of Vietnam - a WHO (World Health Organization) collaborating centre for TRM in the Western Pacific Region. The hospital has 22 departments and two centers, divided in 3 sections: clinical, para-clinical, and functional section. With a cadre of respectable professors, PhDs, masters, level II-doctors, level I-doctors, and skillful doctors, the hospital is the biggest establishment for treatment, research, and training in TRM in Vietnam.
The hospital has 420 patient-beds (270 in-patient and 150 out-patient beds) and various clinical departments such as Internal Medicine, Surgery, Gynecology, Pediatrics, Acupuncture and Vitality Preservation, Geriatrics, ICU, etc. The hospital is equipped with synchronous and modern facilities, supporting the application of diagnosis and treatment clinically and evaluation of TRM scientifically.

With the key missions of inheritance and research for promoting the TRM utilization, In nearly 50 years, the hospital has made a great contribution to the cause of healthcare for people by the use of TRM, both its own and in combination with modern medicine. Many scientific researches at the State or Ministerial or Institute/Hospital level aimed to evaluate the efficacy and safety of herbal medicines; to set up processing protocols and methods of standardization of herbal medicines; to study for application of TRM non-medication and medication methods in treatment and prevention of common diseases, chronic and persistent diseases… were carried out and highly appreciated in TRM local and international conferences.

As a Center for information exchange, every year the National Hospital of Traditional Medicine publishes and distributes a research journal of traditional medicine and pharmacy. Many experts and doctors from the hospital have participated in the international scientific conferences or workshops or in some teaching and research collaboration programs in abroad. The hospital also constantly receives specialists, students coming from different countries to exchange information, to learn and study Vietnamese traditional medicine.

The hospital gradually takes steps to modernize TRM based on the preservation of the national nature of TRM, combining the advantages of both TRM and modern medicine, to contribute to the work of healthcare for community effectively.


The National Hospital of Traditional Medicine has been designed as a WHO collaborating center for TRM in Vietnam since 1988. In past years, along with the development of the hospital international relations have been strengthened and expanded. The hospital has cooperation relations with over 40 countries in the world.

Fields of cooperation:

- Collaborating in scientific research and in exchange of information and specialists in the field of traditional medicine.
- Organizing workshops, training courses in TRM and TRM combined with modern medicine.
- Providing TRM courses for students coming from oversea countries.
- Working in collaboration with foreign specialists in diagnosis and treatment.
Partners:
- WHO office in the Western Pacific Region.
- WHO representative office in Hanoi and WHO collaborating centres for TRM.
- Research institutes, hospitals, international organizations and associations, NGOs, and interested individuals.



Nguồn: Lấy từ Website BV YHCT TW www.yhcotruyentw.org.vn

HOA LĂNG TIÊU

有木名淩霄
擢秀非孤標
Hữu mộc danh Lăng Tiêu
Trạc tú phi cô tiêu…
(Có cây tên Lăng Tiêu,
Đẹp đẽ đứng dựa vào nhau…)


Câu thơ trong bài Lăng Tiêu Hoa của Bạch Cư Dị khiến người ta nhớ đến một loài hoa tuy nhỏ bé thôi mà hữu ích. Trong bài thơ, tác giả đã “ Nhắn gửi với người lập thân, không nên học theo giống hèn yếu ấy” (Ký ngôn lập thân giả, vật học nhu nhược miêu). Thế nhưng xét về mặt y học, loài người chúng ta đã phải cảm ơn nó rất nhiều.
Sách cổ chép rằng Lăng tiêu vị chua tính lạnh, hoa làm lương huyết, chống ứ. Rễ và cành có công dụng trừ phong hoạt huyết, tiêu thũng giải độc. Lá có công dụng trị ung thũng (臃腫). Từ lâu trong dân gian đã biết đến khoảng bắt đầu tháng 6 cho đến 2 tháng sau là mùa có thể thu hoạch hoa Lăng Tiêu. Đến những ngày này, người nông dân chọn hái những hoa đã nở lớn, phơi khô và đem cẩt. Rễ và cành thu hoạch vào mùa thu rồi đem sao vàng làm thuốc. Thông thường hoa Lăng Tiêu thường có những ứng dụng như sau:
Viêm dạ dày ruột cấp tính: Rễ Lăng Tiêu 30 g, gừng tươi 3 lát, sắc uống hằng ngày.

Lỵ cấp tính, viêm gan vàng da: Rễ và lá Lăng Tiêu mỗi thứ 15 g, sắc uống.

Đại tiện ra máu tươi: Hoa Lăng Tiêu ngâm rượu uống.

Đau bụng nổi cục do co thắt dạ dày, ruột: Hoa Lăng Tiêu 60 g, đương quy 30 g, nghệ đen 30 g. Tất cả sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5 g.

Chảy máu cam: Hoa Lăng Tiêu rửa thật sạch, nghiền nát, vắt lấy nước cốt, nhỏ mũi.

Trứng cá đỏ: Hoa Lăng Tiêu, mật đà tăng lượng vừa đủ, sấy khô tán bột, bôi vào nơi tổn thương hoặc dùng hoa Lăng Tiêu 9 g, chi tử 9 g tán bột uống hằng ngày.

Bế kinh: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6 g với nước cơm ấm. Hoặc hoa Lăng Tiêu 12 g sắc kỹ lấy nước bỏ bã, hòa thêm 12 g a giao nướng phồng, uống cùng một chút rượu vang.

Kinh nguyệt không đều: Hoa Lăng Tiêu 9 g, hoa hồng 9 g, ích mẫu thảo 15 g, đan sâm 15 g, hồng hoa 6 g, sắc uống.

Khí hư: Rễ Lăng Tiêu tươi 30 g, đại kế tươi 15 g, trứng gà 1 quả, sắc kỹ, uống nước ăn trứng.

Rong kinh: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 3-6 g với nước ấm hoặc rượu nhạt.

Viêm loét âm đạo: Hoa Lăng Tiêu lượng vừa đủ, sắc lấy nước ngâm rửa.

Trẻ em đi lỏng: Rễ hoặc lá Lăng Tiêu tươi 9-15 g, vỏ gừng 1,5 g, sắc uống.

Nấm da: Hoa Lăng Tiêu tươi 60 g, rễ tươi 30 g, lá tươi 15 g. Tất cả giã nát đắp lên tổn thương.

Rắn cắn: Rễ Lăng Tiêu tươi 125 g sắc với rượu uống. Bên ngoài dùng rễ tươi giã nát đắp vào vết cắn.

Bỏng: Rễ Lăng Tiêu lượng vừa đủ, mài với nước thành dạng hồ rồi đắp vào tổn thương, mỗi ngày 3-4 lần.

Gãy xương: Vỏ rễ Lăng Tiêu tươi và vỏ rễ thanh táo (tiếp cốt thảo nam) lượng bằng nhau, giã nát, sao nóng với rượu, để nguội bớt rồi bó vào chỗ xương gãy.

Bong gân: Dùng lá hoặc hoa Lăng Tiêu tươi 2 phần, tôm đồng tươi 1 phần. Hai thứ giã nát, sao nóng, đắp vào nơi tổn thương.

Ngoài ra, Bệnh nhân nổi mề đay có thể dùng hoa Lăng Tiêu 9 g sắc uống và 30 g nấu nước ngâm rửa. Cũng có thể dùng hoa này để điều trị bệnh chàm: Hoa Lăng Tiêu khô tán bột, trộn với một chút phèn phi, rắc lên tổn thương”.

CHÚ Ý: Những người có thể chất suy nhược, khí huyết hư yếu và phụ nữ có thai không được dùng Lăng Tiêu.


Nguyễn Hạnh
(Theo tài liệu Đông Y)

9 ĐIỀU Y HUẤN CÁCH NGÔN

Hải thượng Lãn Ông là một y học gia nổi tiếng của dân tộc ta. Nếu ở Tây Phương người ta biết đến những lời thề của Hipocrat thì ở Việt Nam những người làm thuốc thường nhắc nhở cho nhau 9 điều y huấn cách ngôn.

Phàm người học thuốc, tất phải hiểu thấu lý luận đạo Nho, có thông lý luận đạo Nho thì học thuốc mới dễ. Khi có thời giờ nhàn rỗi, nên luôn luôn nghiên cứu các sách thuốc xưa nay. Luôn luôn phát huy biến hóa, thu nhập được vào Tâm, thấy rõ được ở mắt thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không phạm sai lầm.
Được mời đi thăm bệnh : nên tùy bệnh cần kíp hay không mà sắp đặt đi thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hoặc nghèo hèn mà nơi đến trước chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém khi lòng mình có chỗ không thành thật, thì khó mong thu được kết quả.
Khi xem bệnh cho phụ nữ, góa phụ, ni cô... cần phải có người nhà bên cạnh mới bước vào phòng để thăm bệnh để tránh hết sự nghi ngờ. Dù cho đến con hát, nhà thổ cũng vậy, phải đứng đắn coi họ như con nhà tử tế, không nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả về tà dâm.
Phàm thầy thuốc nên nghĩ đến việc giúp đỡ người, không nên tự ý cầu vui như mang rượu lên núi, chơi bời ngắm cảnh, vắng nhà chốc lát, lỡ có bệnh cấp cứu làm cho người ta sốt ruột mong chờ, nguy hại đến tính mạng con người. Vậy cần biết nhiệm vụ mình là quan trọng như thế nào"
Phàm gặp phải chứng bệnh nguy cấp, muốn hết sức mình để cứu chữa, tuy đó là lòng tốt, nhưng phải nói rõ cho gia đình người bệnh biết trước rồi mới cho thuốc. Lại có khi phải cho không cả thuốc, như thế thì người ta sẽ biết cảm phục mình. Nếu không khỏi bệnh cũng không có sự oán trách và tự mình cũng không hổ thẹn.
Phàm chuẩn bị thuốc thì nên mua giá cao để được loại tốt. Theo sách Lôi Công để bào chế và bảo quản thuốc cho cẩn Thận. Hoặc theo đúng từng phương mà bào chế, hoặc tùy bệnh mà gia giảm. Khi lập ra phương mới, phải phỏng theo ý nghĩa của người xưa, không nên tự lập ra những phương bữa bãi để thử bệnh. Thuốc sắc và thuốc tán nên có đủ. Thuốc hoàn và thuốc đơn nên chế sẳn. Có như thế mới ứng dụng được kịp thời, khi gặp bệnh khỏi phải bó tay.
Khi gặp bạn đồng nghiệp, cần khiêm tốn, hòa nhã, giữ gìn thái độ kính cẩn, không nên khinh nhờn. Người lớn tuổi hơn mình thì kính trọng; người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì mình nhân nhượng; người kém mình thì dìu dắt họ. Giữ được lòng đức hậu như thế, sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho mình.

Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo túng hoặc những người mồ côi, góa bụa, hiếm hoi, càng nên chăm sóc đặc biệt. Vì những người giàu sang không lo không có người chữa, còn người nghèo hèn thì không đủ sức đón được thầy giỏi, vậy ta để tâm 1 chút họ sẽ được sống 1 đời. Còn như những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại còn tùy sức mình chu cấp cho họ nữa. Vì có thuốc mà không có ăn thì cũng vẫn đi đến chỗ chết. Cần phải cho họ được sống toàn diện mới đáng gọi là nhân thuật. Còn những kẻ vì chơi bời phóng đãng mà nghèo và mắc bệnh thì không đáng thương tiếc lắm.
Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí bất thường mà mình cầu cạnh, thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc cho người ta để cầu lợi thường hay sinh chuyện. Cho nên nghề thuốc là thanh cao, ta càng giữ khí tiết cho trong sạch. Tôi xét lời dạy bảo của các bậc tiên hiền về lòng tử tế và đức hàm dục, rèn luyện cho mình rất chặt chẽ và đầy đủ. Đạo làm thuốc là 1 nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi, kể công. Tuy không có sự báo ứng ngay nhưng để lại âm đức về sau. Phương ngôn có câu : "Ba đời làm thuốc có đức thì đời sau con cháu tất có người làm nên khanh tướng" đó phải chăng là do có công vun trồng từ trước chăng" Thường thấy người làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha mẹ người ta ngặt nghèo hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối, trời mưa, có bệnh nguy cấp : bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó bảo là không trị được, giở lối quỷ quyệt đó để thỏa mãn yêu cầu, rắp tâm như thế là bất lương. Chữa cho nhà giàu thì tỏ tình sốt sắng, mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo thì ra ý lạnh nhạt, sống chết mặc bay. Than ôi! Đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng mua bán, như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được!".


Đại Y Tôn Hải Thượng Lãn Ông.
Nguyễn Hạnh bất tức kính sao

ĐIỀU KỲ DIỆU VỀ CHIẾC ÁO DÀI Ả RẬP

Vào mùa hè, nhiệt độ trong sa mạc tại Ả Rập có khi lên tới 40-500C, vậy mà những người dân ở đây vẫn ung dung trong chiếc áo dài dày dặn trùm kín người như không hề có chuyện gì xảy ra cả.



Đã từng có một người khách quyết định tự mình thử mặc loại áo này. Để có những thực nghiệm mang tính chất khoa học, đầu tiên ông ta mặc một chiếc áo sơ mi mỏng và một chiếc quần cộc rồi đi dạo trên sa mạc. Điều xảy ra là ông ta nhanh chóng không thể chịu được sức nóng kinh người này. Sau khi thay chiếc áo Ả Rập vào thì cảm giác dễ chịu mát mẻ khó tả hồ như truyền khăp cơ thể. Việc mặc một chiếc áo dài lại mát hơn mặc một chiếc áo ngắn là một điều khó tin, nhưng kì thực bên trong lại chứa đựng một nguyên lí khoa học đầy thuyết phục.

Áo dài Ả Rập vốn là thứ áo rất rộng và dày, có thể che kín toàn thân, khi gió thổi từ bên ngoài vào trong cơ thể, có thể lùa vào khắp nơi, tạo nên một hiệu ứng gọi là” Ống thông khói”, khiến cho hơi ẩm thoát đi môt cách dễ dàng. Đồng thời, với độ dài rộng như thế, chiếc áo giúp cho chúng ta cản được những tia nắng chiếu vào bề mặt da của cơ thể, lượng không khí có trong chiếc áo vô hình chung như là một lớp cách nhiệt lí tưởng tạo ra sự mát mẻ, sảng khoái. Một nhà tạo mẫu người Ả Rập Saudi cho rằng, đặc điểm thiết kế chính là một yếu tố rất tốt trong việc điều tiết dòng đối lưu không khí trong áo.

Cái gọi là dòng đối lưu không khí trong áo chính là sự tương quan giữa nhiệt độ không khí bên ngoài và bên trong cơ thể. Bất kể là mùa đông hay mùa hè, nhiệt độ thích hợp nhất trên bề mặt da bình quân là 33oC, trong khi đó nhiệt độ trong áo là từ khoảng 31-33oC, như vậy tỉ lệ tương đối là 40%/60%. Nếu như dòng đối lưu không thích hợp, sẽ khiến cho việc điều tiết nhiệt độ thân thể của trung khu thần kinh bị căng thẳng, dẫn đến các hệ thống khác trong cơ thể cũng rối loạn, xuất hiện cảm giác nóng nực, mệt mỏi, hồi hộp, choáng váng.v.v…

Những người Ả Rập sống trong những vùng khí hậu á nhiệt đới vì muốn tạo ra dòng đối lưu không khí lí tưởng trong cơ thể, thường chọn những loại vải có khả năng hút ẩm và tản nhiệt tốt như vải gai, tơ lụa, bông v.v…Màu sắc của áo thường là những màu nhạt, ví dụ như màu trắng, lam nhạt hoặc xanh lá cây…nhằm giảm thiểu tối đa sự hấp thu nhiệt lượng. Tiêu chuẩn của việc thiết kế thường lấy số đo dài rộng của vạt áo, cổ áo và cổ tay làm đầu. Việc này nhằm tăng thêm việc điều tiết đối lưu không khí, mạnh thêm hiệu ứng “Ống khói” như đã nói ở trên.

Thực sự những chiếc áo dài Ả Rập đã trở thành loại trang phục lí tưởng trong điều kiện khí hậu nóng nực ít mưa của vùng sa mạc rộng lớn, khắc nghiệt.

Nguyễn Hạnh (Từ báo nước ngoài.

MỘT SỐ THÀNH NGỮ HÁN VIỆT THƯỜNG DÙNG

Dưới đây là một số thành ngữ hay dùng trong tiếng Trung, hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc của văn hoá Hoa Hạ cổ đại. Mỗi thành ngữ đều liên quan đến một câu chuyện trong những tác phẩm nổi tiếng. Tuy 29 thành ngữ chỉ là một con số rất nhỏ nhưng hy vọng sẽ đem đến cho mọi người một cái nhìn về đất nước Trung Hoa vĩ đại, huyền bí.

1. 不知人間有羞耻事 Bất tri nhân gian hữu tu sỉ sự: Không biết xấu hổ. Xuất xứ từ Âu Dương Văn Trung tập- Dữ Cao Tư gián thư. Trong đó có đoạn: “Hôm qua An Đạo bị biếm chức, Sư Lỗ phải chờ xử tội, thế mà túc hạ còn đi gặp gỡ các bậc sĩ đại phu, nghênh ngang trong triều, xưng là giám quan, thế có nghĩa là túc hạ không biết xấu hổ vậy”. Đây là thành ngữ Trung Quốc thường dùng để chê bai, quở trách những hạng người vô liêm sỉ, không còn biết xấu hổ là gì nữa.

2. 不自量力 Bất tự lượng lực: Không biết tự lượng sức mình. Xuất xứ từ Chiến quốc sách, phần Tề sách, có đoạn: Thuần Vu Khôn đến nước Tề. Vua hỏi: “ Sao lại gặp ở Kinh?”. Khôn đáp: “Nước Kinh rất mạnh, mà nước Tiết lại không tự lượng sức mình”. Đây là thành ngữ chỉ những người, những hành động biểu hiện tự trong bản thân một cá thể không tự đánh giá được khả năng của chính mình.

3. 不为五斗米折腰 Bất vị ngũ đấu mễ chiết yêu: Xuất xứ từ Tấn Thư, truyện về Đào Uyên Minh, trong đó có đoạn: “ Tiềm than rằng: Ta không thể vì năm đấu gạo mà khom lưng, chỉ tha thiết làm hạng tiểu nhân trong thôn xóm mà thôi!”. “Năm đấu gạo” chỉ bổng lộc ít ỏi của quan lại. Khom lưng hành lễ là khuất mình thờ người. Thành ngữ này chỉ hành động của những con người thanh cao, không vì mưu sinh tầm thường mà chịu luồn nhục nhã.

4. 髀肉复生 Bễ nhục phục sinh: Xuất xứ từ truyện Tam Quốc chí quen thuộc. Trong đó có lần Lưu Bị nói: “ Ta thường thân không rời yên ngựa, thịt đùi chai lại. Nay không được cưỡi nữa. Thịt đùi béo xệ ra. Đây là thành ngữ chỉ sự ăn không ngồi rồi, nhàn rỗi quá lâu không chịu vận động, khiến thân thể phì nộn ra.

5. 病入膏肓 Bệnh nhập cao hoang: Bệnh tình nguy kịch, vô phương cứu chữa. Xuất xứ từ Tả truyện: “Bệnh nặng lắm rồi không thể chữa được, vào đến trên hoang (lớp màng trong cơ thể), dưới chỗ cao (màng nhờn trong cơ thể), như vậy là không thể trừ được, thuốc không tới được, không làm gì nổi”. Cao hoang là hai màng ở giữa hoành cách mô và tâm, thuốc không thể vào tới nơi được. Sau này dùng từ Bệnh nhập cao hoang chỉ bệnh tật vô phương cứu chữa, cũng chỉ sự việc đến tình thế không thể cứu vãn được nữa.

6. 疲于奔命 Bì vu bôn mệnh: Mệt mỏi rã rời. Từ dùng trong Tả truyện. Bôn mệnh là vâng mệnh đi thực hiện nhiệm vụ. Đây là thành ngữ chỉ người quá bận rộn mà kiệt sức mêt mỏi.

7. 变生肘腋 Biến sinh trửu dịch: Tai họa ngay dưới nách. Xuất xứ từ truyện Tam Quốc Chí: “ Gần thì có Tôn phu nhân sinh biến ở ngay dưới nách”. Dưới nách là chỉ nơi rất gần. Thành ngữ chỉ tai họa không phải ở xa xôi mà ở rất gần, gần như để ngay dưới nách vậy.

8. 別开生面 Biệt khai sinh diện: Mở ra một cục diện mới. Xuất xứ từ bài thơ Đan thanh dẫn tặng Tào tướng quân Bá: Lăng Yên công thần thiểu nhan sắc, tướng quân há bút khai sinh diện ( Lăng Yên công thần màu sắc nhạt, tướng quân phóng bút lại mới tinh). Khai sinh diện nguyên nghĩa chỉ một bức tranh ảm đạm nhưng lại có sức hút, bỗng chốc rực rỡ. Sau này để chỉ phong cách hay cục diện mới.

9. 別无长物 Biệt vô trường vật: Không có vật nào thừa cả, việc nào vào việc ấy. Xuất xứ từ Lưu Nghị Khánh triều nam Tống. Trường vật chỉ những đồ vật dư thừa. Câu thành ngữ này có ý nói các đồ vật đều có ích dụng, không một vật nào sinh ra trên thế gian này là thừa cả.

10. 兵不血刃 Binh bất huyết nhẫn: Gươm chưa dính máu. Xuất xứ từ Tuân tử- Nghị binh: “ Gươm không dinh máu mà xa gần đều qui phục”. Thành ngữ chỉ sự giành thắng lợi một cách nhanh chóng.

11. 兵不厌诈 Binh bất yếm trá: Việc binh tha hồ dối trá. Xuất xứ từ Hàn Phi Tử- Nan nhất: “ Trong chiến trận, tha hồ dối trá. Thành ngữ chỉ việc trong đạo dùng binh có thể dùng mọi cách kể cả nói dối để giành phần thắng. Còn có thể dị bản là Binh bất yếm quyền trong đó Quyền là quyền nghi, quyền biến, tuỳ lúc, tuỳ nơi hay tuỳ việc mà áp dụng linh hoạt các phương pháp biến thông mà thủ thắng.

12. 兵貴神速 Binh quí thần tốc: Tôn tử- Cửu địa: “Việc binh quí ở thần tốc. Đây là châm ngôn cho việc dùng binh. Dùng binh phải thần tốc, khiến kẻ địch khó lường trở tay không kịp.

13. 赔了夫人又折兵 Bồi liễu phu nhân hựu chiết binh: Mất cả chì lẫn chài. Xuất xứ từ truyện Tam Quốc diễn nghĩa, hồi thứ 55: “ Chu Lang diệu kế an thiên hạ, bồi liễu phu nhân hựu chiết binh.” ( Chu Lang bày kế yên thiên hạ, vừa mất phu nhân lại tổn binh). Bồi là tiền vốn mua bán; “Chiết” là thiệt hại; “Chiết binh” là hao binh tổn tướng. Đây là thành ngữ ý nói muốn chiếm lợi thế, nhưng lại bị tổn thất gấp bội.

14. 背城借一 Bối thành tá nhất: Quay lưng vào thành mà quyết một trận sống mái. Tả truyện: “ Thỉnh thu hợp dư tẫn, bối thành tá nhất”. ( Xin thu thập toàn quân, quyết chiến một trận). “Bối thành” là lưng đối diện với tường thành, ý nói không còn đường lui. “Tá nhất” là quyết chiến một trận cuối cùng. Thành ngữ này ý chỉ quyết tâm chiến đấu một trận cuối cùng để thoát ra khỏi nguy hiểm.

15. 蓬生麻中,不扶自直 Bồng sinh ma trung, bất phù tự trực: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Xuất xứ từ Tuân tử: “ Bồng sinh ma trung, bất phù tự trực”. ( Cỏ bồng mọc lẫn cây đay, không đỡ vẫn thẳng). Bồng là một loại cỏ; Ma là cây đay, cây gai, là cây mọc thẳng, thân dài mà nhỏ. Thành ngữ trên mang ý nghĩa cỏ bồng mọc trong bụi đay, không cần đỡ vẫn thẳng. Thời xưa dùng chỉ những người sống giữa những người tốt ắt sẽ tốt hơn.
16. 各得其所 Các đắc kì sở: Ai yên phận nấy. Lời trong kinh Dịch- Hệ từ hạ; Hán thư Đông Phương Sóc truyện: “ Thế là từ đấy trong thiên hạ, dân chúng ai yên phận nấy.” Vốn thành ngữ này chỉ ai nấy đều thoả mãn nguyện vọng của mình. Sau chỉ người nào cũng đều được sắp đặt đúng chỗ.”.
17. 改弦易辙 Cải huyền dịch triệt: Đàn so lại dây, xe đổi lối cũ, ý thay đổi triệt để. Trong Dã Khách tùng thư- Trương Đỗ Giai hữu hậu của Vương Thụ đời Tống: “ Khiến cho con cháu ông đã “ Cải huyền dịch triệt”, chú trong khoan hậu, việc đó đủ để lấp được cái sai trước của người cha”. Dịch là thay đổi; Triệt là bánh xe, ở đây là con đường. Thành ngữ này ý chỉ sự thay đổi triệt để hoàn toàn lại phương hướng, kế hoạch hay cách làm trước.”.
18. 改过自新 Cải quá tự tân: Sửa sai đổi mới. Xuất xứ từ Sử kí- Biển Thước Thương Công liệt truyện: “ Tuy muốn sửa sai đổi mới, nhưng không được nghe theo, cuối cùng chẳng thể được”. Tự tân là biến mình thành người mới. Thành ngữ này ý là hối cải sai lầm, làm lại cuộc đời.
19. 感激涕零 Cảm kích thế linh: Cảm động rơi lệ. Trong Bình Thái hành của Lưu Vũ Tích có câu: “ Bên đường người già nhớ truyện cũ, nhìn nhau cảm kích lệ tuôn trào ( Lộ bàng lão nhân ức cựu sự, tương dữ cảm kích giai thế linh).
20. 高屋建瓴 Cao ốc kiến linh: Thế như trút nước,thế như chẻ tre. Xuất xứ từ Sử kí- Cao tổ bản kỉ: “ Tần trung địa thế tiện lợi, nếu đem quân xuống đánh với chư hầu thì có thế như người đứng trên nhà mà đổ chậu nước từ trên xuống, thế không ngăn được ( Cao ốc kiến linh)”. “Cao ốc kiến linh” là dội bình nước từ trên cao xuống, như thế thì có gì cản nổi không?
21. 高山流水 Cao sơn lưu thuỷ: Núi cao nước chảy, tri âm tri kỉ. Xuất xứ từ Liệt tử- Thang vấn thiên: “ Bá Nha gảy đàn nghĩ đến núi cao. Chung Tử Kì nói: “ Hay quá! Chót vót như núi Thái Sơn!” Bá Nha gảy đàn nghĩ đến nước chảy, Chung Tử Kì lại nói: “ Hay quá! Mênh mông như sông dài!” Thành ngữ chỉ bạn tri âm tri kỉ, cũng ví với khúc nhạc kì diệu.
22. 锦囊妙计Cẩm nang diệu kế: Kế sách kì diệu. Xuất xứ từ Tam quốc diễn nghĩa- hồi thứ 54: “ Khổng Minh bèn gọi Triệu Vân đến bên ghé vào tai mà dặn dò: Chuyến này nhà ngươi bảo hộ chúa công sang Đông Ngô nên mang theo ba chiếc túi gấm này, trong túi đựng ba diệu kế, cứ theo thứ tự mà làm!” Cẩm nang là các văn kiện cơ mật, hoặc túi lụa đựng thi cáo. Thành ngữ chỉ kế sách hay trong túi gấm. Ngày nay chỉ những biện pháp hay, kịp thời giải quyết những vấn đề cấp bách.
23. 噤若寒蝉 Cấm nhược hàn thiền: Câm bặt như ve sầu mùa đông, miệng câm như hến. Theo Hậu Hán thư-Đỗ Mật truyện”: Lưu Thắng là quan đại phu, nhưng biết người tài mà không tiến cử, thấy người ác mà không dám nói, chỉ mong bình an vô sự, như con ve sầu ngủ đông, như vậy là kẻ có tội!”
24. 近水楼台 Lâu đài gần nước: Xuất xứ từ Thanh Dạ lục của Du Văn Báo đời Tống: “Gần nước lâu đài trăng dọi trước, hướng dương hoa cỏ dễ xuân về” ( Cận thuỷ lâu đài tiên đắc nguyệt, hướng dương hoa mộc dị vi xuân). Thành ngữ ví những người sống gần, ơ gần dễ có điều kiện ưu tiên, cũng dùng để chỉ những ai đó lợi dụng địa vị của mình mà có được lợi ích ưu tiên nào đó. Sau hàm ý xấu, chê bai.
25. 篝 火狐鳴 Câu hoả hồ minh: Đốm lửa trong lồng làm giả tiếng cáo: Xuất xứ từ Sử kí- Trần Thiệp thế gia: “ Lại ngầm sai Ngô Quảng đến ngôi đền ở cạnh, cây cối um tùm, đang đêm thắp đèn lồng, giả tiếng cáo kêu rằng: “ Nước Sở nổi lên, Trần Thắng làm vua”. Thành ngữ này chỉ đốm lửa đặt trong lồng, ánh sáng mập mờ như lửa ma trơi, đồng thời lại giả tiếng cáo kêu. Vốn nghĩa là giả tiếng kêu của cáo để phát động khởi nghĩa.
26. 求田问舍 Cầu điền vấn xá: Mua ruộng tậu nhà. Xuất xứ từ Tam quốc chí- Ngụy thư- Trần Đăng truyện: “ Bị nói: “ Ông có danh vọng quốc sĩ. Nay thiên hạ đại loạn, ngôi vua đương nguy, mong ông lo nước quên nhà, nuôi chí cứu đời. Nhưng ông chỉ lo tậu ruộng mua nhà, lời nói tầm thường, nên bị Nguyên Long chê trách vậy”. Xá là căn phòng. Cầu điền vấn xá chỉ việc mong muốn mua ruộng tậu nhà. Hình dung với việc người chỉ biết tích cóp của cải mà không có chí lớn.
27. 狗尾续貂 Cẩu vĩ tục điêu: Đuôi chó thay chồn; Khố tải vá áo vóc; Đầu voi đuôi chuột. Xuất xứ từ Tấn thư- Triệu Vương Luân truyện: “ Lông đuôi chồn không đủ, thay bằng đuôi chó vậy”. Điêu là loại chồn có lông rất quí, thời cổ đại người hầu theo vua thường dùng đuôi của nó làm mũ. Thành ngữ này nguyên nghĩa châm biếm việc phong tước quá lạm. Sau chuyển nghĩa chỉ việc thay cái sau tồi hơn cái trước, trước sau không tương xứng với nhau.
28. 枕戈待旦 Chẩm qua đãi đán: Gối giáo đợi sáng. Xuất xứ từ Tấn thư- Lưu Côn truyện: “ Ta gối giáo đợi sáng, chí quyết diệt giặc, chỉ e Tổ Địch vung roi trước ta mà thôi”. Qua là một loại vũ khí thời xưa, ở Việt Nam gọi là cây giáo. Đán là trời sáng. Thành ngữ ý nói gối giáo đợi trời sáng, chí quyết diệt giặc, ví với ý quyết tâm tha thiết diệt giặc báo đền ơn nước, một giây khắc cũng không ngơi nghỉ.
29. 振臂一呼 Chấn tí nhất hô: Xuất xứ từ văn tuyển- Lý Lăng- đáp Tô Vũ thư: “ Nhưng Lý Lăng vẫn vung tay hô lớn, vết thương lại vỡ ra”. Thành ngữ trên có ý nghĩa là vung tay hô lớn, mong hiệu triệu mọi người.

Nguyễn Hạnh (Sưu tầm)

TỪ MỘT CÂU THÀNH NGỮ

Trong kho tàng thành ngữ Trung Hoa, Câu hoả hồ minh 篝火狐鳴( Đốm lửa trong lồng giả làm tiếng cáo) là một thành ngữ khiến nhiều người phải lưu tâm để ý.



Trong kho tàng thành ngữ Trung Hoa, Câu hoả hồ minh 篝火狐鳴( Đốm lửa trong lồng giả làm tiếng cáo) là một thành ngữ khiến nhiều người phải lưu tâm để ý. Điều đáng nói là ở đây việc giải nghĩa hoàn toàn tức cười nếu người đọc chỉ dựa vào nghĩa đen khi dịch. Thế nào là Trong lồng đốm lửa giả tiếng cáo. Hãy lần mở sách xưa mới thấy cái thâm ý người xưa, cái thâm ý lồng vào cả một nghệ thuật mà bây giờ hậu thế vẫn coi là cẩm nang muôn đời.
Đọc sách Sử kí- Trần thiệp thế gia có đoạn: “ Lại ngầm sai Ngô Quảng đến ngôi đền bên cạnh, cây cối um tùm, đang đêm thắp đèn lồng, giả tiếng cáo kêu rằng: “ Nước Sở nổi lên, Trần Thắng làm vua”.
Lời nói này khiến ai biết chữ Hán đều nhớ đến câu 黎利為君,阮廌為臣 ( Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi) trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Thực ra không phải đợi đến thời kì Lam Sơn, trong công cuộc phá Tống lần thứ hai, danh tướng Lí Thường Kiệt đang đêm cũng đã sai người chui vào đền giả làm tiếng thần linh phán bảo qua bài thơ:
南國山河南帝居
截然定分在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看守敗虛.
Phiên âm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?!
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?!
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Quả nhiên bài thơ thần đó đã có tác dụng, nâng cao sĩ khí ba quân, trận đó ta chuyển nguy nan thành lợi thế, giữ vững phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Như vậy, chỉ là lời nói đơn thuần mà ngầm chứa sức mạnh thần kì. Tất cả mọi người không hiểu nổi nhưng đều công nhận điều đó.
Trong cuốn Binh thư yếu lược - quyển II có chỉ ra rõ ràng rằng: “ Điều cốt yếu để đánh được địch không phải là chỉ dùng sức mạnh để chống, còn phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó; Hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó; lừa bằng tình, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn hư thực, lấy sự lừa của nó mà để cho nó bị lừa, nó lừa mà ta thì biết. Cho nên người giỏi việc binh lừa người mà không bị lừa”.
Điều 13, phép dạy quân đánh giặc trong Hổ Trướng khu cơ lại răn rằng: “ Quân gian thường biến trá nhiều mối, cần phải xem xét, phàm tế tác gian dối, làm cho lòng quân sinh biến, tất là trong có cơ mưu. Hoặc dùng văn tự chế nhạo, hoặc lấy cây cỏ làm điềm tin, hoặc dùng ngôn ngữ làm thí dụ, hoặc dùng tiếng chim muông, các cơ mưu ấy là đáng sợ…”
Những lời cáo huấn trên cho hậu nhân chúng ta thấy rằng việc dùng binh nói riêng, mọi việc nói chung muốn đoạt thắng lợi không nhất thiết phải dùng đến sức mạnh. Đôi lúc từ những nội dung rất bình thường nhưng với những động tác nào đó sẽ đi đến những kết quả không ngờ. Hàm chứa trong những kiến thức hiển hiện là những sức mạnh ngầm của hư ảo.
Từ đốm lửa trong lồng phát ra tiếng nói, những chiếc lá kiến cắn thành chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, đến bài thơ phát ra trong đền như lời thần phán bảo của danh tướng Lí Thường Kiệt… tất cả đều dùng biện pháp hư ảo, thần thánh hoá, đánh vào tâm lí hoang mang của đối phương, khiến chúng vừa hãi cái uy, sợ cái hư, khó tìm cái thực.
Nghệ thuật tâm lí chiến của cổ nhân rõ ràng mà tinh tế, tưởng hồn nhiên mà lại cao sâu huyền ảo vô chừng. Nghệ thuật đó còn để lại dấu vết trong kho thư tịch cổ mà câu thành ngữ trên là một ví dụ đáng nói.

Nguyễn Hạnh.

CHUYỆN VỀ BỨC TƯỢNG DAVID

500 năm trước, Michelangelo dựa vào nguyên mẫu của người đã giết chết gã khổng lổ Goliat trong kinh thánh, sáng tác ra bức tượng David nổi tiếng thế giới. Từ sau khi được trưng bày tại fronsa, triển lãm Ofejii lại náo nhiệt trở lại, mỗi năm đều đầy ắp khách tham quan.



Một lần, một trung niên 40 tuổi người Anh nghe tiếng tới thăm, khi vừa buông hành lí liền lập tức chạy đi tìm bức tượng. Mặc dù đã được nghe nhìn nhiều lần qua đài báo và các thông tin đại chúng, nhưng khi mục kích bức tượng tận mắt, người ta thấy hiện lên trong con mắt của anh niềm đam mê cháy bỏng, đờ đẫn như mất hẳn tri giác bình thường.
Sau đó có những người khách đến từ Âu Mỹ đã từng ngất xỉu dưới chân bức tượng chàng David, gây sửng sốt cho chính quyền sở tại. Thiên hạ bắt đầu đổ xô vào nghiên cứu vấn đề này. Qua một năm nỗ lực miệt mài, thì ra bức tượng David có khả năng làm cho con người ta mê mẩn đến điên dại và cuồng say, khiến có thể ngã nghiêng ngã ngửa. Người ta đã từng gọi hội chứng này là “Hội chứng Đa vít”.
Nước Việt Nam ta có bề dày lịch sử dài 4000 năm, có để lại cũng nhiều vẻ đẹp nhân văn cũng như tự nhiên, thế nhưng sao chưa bao giờ nghe thấy những hội chứng đại loại như ”Hội chứng Vịnh Hạ Long”, “Hội chứng Phật bà nghìn tay nghìn mắt”, “Hội chứng tháp Chàm”.v.v…
Thiết nghĩ, vấn đề không phải là có hay không có di sản, nhiều hay không nhiều vẻ đẹp, mà vấn đề ở đây là chúng ta có biết bảo vệ trân trọng vốn quí dân tộc, thưởng thức và tự giới thiệu cho bạn bè thế giới hay không!

Nguyễn Hạnh.

TIỂU SỬ MỘT CON NGƯỜI

Vào một ngày tháng 6 năm 1944, 15 vạn binh sĩ đổ bộ lên xứ Normandi. Việc đổ bộ thành công lên xứ Normandi có một ý nghĩa quyết định đến công cuộc thắng lợi cho quân đội đồng minh trong đại chiến thế giới thứ hai. Nhưng điều mọi người chưa biết là cuộc đổ bộ thần tốc đó, công đầu phải thuộc về một con người, đó là Anterlu Jackson Shijinson.



Shijinson là một nhà đóng thuyền táo bạo, rất giỏi thiết kế mẫu những loại thuyền nhỏ đơn giản. Những con thuyền này rất có lợi trong việc khai thác khoáng sản và truy bắt người trong những vùng đầm lầy nước nông ở Luisianna. Shijinson tự tin rằng có thể chế tạo một loại tàu chiến nhỏ có khả năng đi nhanh trên địa hinh đó nhưng công trình một thời gian bị coi là một ý tưởng điên rồ.
Qua một thời gian nghiên cứu ông cho rằng gỗ chính là nguyên liệu lí tưởng trong việc chế tạo loại “tiểu chiến hạm” này. Ông bắt đầu một chiến dich đơn thương độc mã nhằm chứng minh ý tưởng của mình là không hề tồi. Ông từng nói lớn rằng: “Hải quân chúng ta nào có hiểu quái gì về đóng thuyền, nhưng tôi lại hoàn toàn hiểu”. Cuối cùng dưới sự giúp đỡ của viện sĩ Hali Tullumen, qua 1 cuộc thử nghiệm giữa những con thuyền nhỏ của Shijison và những chiến hạm của phe hải quân, ông đã được chấp nhận vì dễ dàng thắng cuộc.
Trên đây chỉ là một phần của câu chuyện, Shijinson còn được coi như một thiên tài về cơ khí hoá. Năm 1939, phân xưởng của Shijinson chỉ vẻn vẹn có hơn 100 công nhân, nhưng chỉ đến năm 1944, số công nhân đã lên tới 2.5 vạn người, chia làm 8 phân xưởng. Mỗi khi mặt bằng của xưởng không đủ để thi công, ông còn phải cho kéo cả máy móc tới tận chân công trình làm việc. Một lần do thiếu nguyên liệu, ông phải đến cả vùng Kansat xa xôi để ăn trộm vật liệu từ một xưởng chế xuất dầu. Để nhận xét về ông, người trong hàng ngũ tướng lĩnh hải quân nói:” Nếu không có sự hiện diện của những con tàu nhỏ, thì việc đổ bộ lên Normandi chỉ là điều hão huyền mà thôi”.Shijinson dám nghĩ dám làm, điều đó tạo nên một sự thay đổi trong lịch sử.


Nguyễn Hạnh (theo báo chí TQ).

MỘT BÀI VIẾT VỀ NGUYỄN TRUNG NGẠN

Ông Thôi nay ở trên đầu


Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Ngạn và bài thơ Hoàng Hạc Lâu.

Trong thơ văn Lí Trần, Nguyễn Trung Ngạn là một trong những nhân vật tiêu biểu. Tóm tắt về tiểu sử của ông, có thể nói như sau:






A.Tiểu sử tác giả.


Nguyễn Trung Ngạn sinh năm Kỉ Sửu Trùng Hưng ngũ niên (1289) đời vua Trần Nhân Tông.Năm 1304 đậu hoàng giáp cùng khoa với trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, bảng nhãn Bùi Mộ, thám hoa Trương Phóng. Sử ghi ông nổi tiếng thần đồng.Từ 1304 đến 1311 cụ không chịu ra làm quan, sử ghi: “ Đức vua Anh Tông (1293- 1314) có làm bài thơ Chiêu ẩn (Mời bậc kẻ sĩ ra làm quan), ban cho Trung Ngạn, Trung Ngạn từ chối không vâng lệnh.
Năm 1312 nhận làm gián quan.
Năm 1314 được cử đi sứ sang Yên Kinh cùng Phạm Mại.
Năm 1321 làm thị ngự sử.
Năm 1324 vua sai cụ tiếp sứ, cụ đấu lí thắng sứ thần Nguyên, nhưng sau trái ý vua nên bị giáng làm thông phán châu Viêm Lãng. Vì được nổi tiếng là chính sự giỏi nên một thời gian lại được thăng làm thiêm tri thánh từ cung sự.
Năm 1326 giáng làm an phủ sứ Thanh Hoá là do đãng trí, ghi sổ sách bị nhầm lẫn, và do vua thương có tài, chỉ biếm làm quan xa mà thôi.
Năm 1329, thượng hoàng đi tuần thú đạo Hà Giang, đích thân đánh Man Ngưu Hống, cụ được đi theo soạn thực lục.
Tháng 3 năm 1332 làm Nội mật viện phó sứ, giữ sổ sách ở nội sách cung Quan Triều. tháng 7 lại làm tri thẩm hình viện sự kiêm an phủ sứ Thanh Hoá. Cụ lập Bình doãn đường xét xử ngục tụng, không ai bị xử oan, không ai bị quá đáng.
Năm 1334, thương hoàng tuần thú đạo Nghệ An, thân đánh Ai Lao, cụ làm phát vận sứ Thanh Hoá, vận tải lương thực đi trước. Cụ được cử mài vách núi đá, khắc chữ ghi công, bài ấy khắc ở núi Thành Nam, thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương.
Năm 1337 làm an phủ sứ Nghệ An, kiêm Quốc sử viện giám tu quốc sử, hành Khoái Châu lộ tào vận sứ. Cụ kiến nghị lập tào thương chứa thóc tô để chẩn cấp khi dân bị thiếu đói, vua xuống chiếu cho các lộ bắt chước thế mà làm.
Năm 1314 được cử làm đại doãn kinh sư, lại được cử cùng Trương Hán Siêu biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và soạn khảo bộ Hình thư để ban hành.
Năm 1342 làm hành khiển tri Khu mật viện sự. Trước đây thì cấm quân thuộc về Thượng thư sảnh, lúc này thì lại thuộc Khu mật viện. Cụ chọn đinh tráng các lộ bổ sung cho cấm quân, định thành sổ sách. Khu mật viện quản lãnh cấm quân là bắt đầu từ cụ.
Năm 1351 làm nhập nội hành khiển, vẫn coi việc ở Khu mật viện. Mùa đông vua ngự điện Thiên An, duyệt cấm quân ở Long trì, ban cho cụ mặc chiến bào, đội mũ võ chỉ huy, định loại hơn kém.
Năm 1355 làm kinh lược sứ trấn Lạng Giang, nhập nội hành khiển, thượng thư hữu bật, kiêm tri Khu mật viện sự, thị kinh diên đại học sĩ, trụ quốc khai huyện bá.
Năm 1370 ông mất.
Nhìn qua cuộc đời tác giả như thế có thể thấy là ông rất thành đạt trong học nghiệp và quan trường. Về mặt văn học và tác phẩm, từ lâu thơ văn của ông đã là một đối tượng nghiên cứu sâu xa trong thơ văn Việt Nam nói chung, thơ văn Lí Trần nói riêng. Trong giới hạn bài viết này chúng ta chỉ đề cập đến bài thơ Hoàng Hạc Lâu, một bài thơ của một tác giả Việt Nam viết về một đề tài Trung Quốc, thậm chí đề tài đã từng được khai thác và trở nên quá quen thuộc với người yêu thích văn hoá Trung Hoa, âu cũng chỉ muốn cùng quí vị cùng ôn cố nhi tri tân, thưởng lãm cái đẹp, mở rộng thêm kiến văn của chính mình.
B. Bài thơ Hoàng Hạc Lâu.
Từ trước đến nay, chúng ta thường biết đến một Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Đây là một bài thơ Đường theo thể thất ngôn luật thi đã được hàng triệu con người trên khắp hoàn cầu biết tới. Và ai yêu văn học Trung Quốc cổ điển cũng đều biết rằng có một nhà thơ cũng vô cùng nổi tiếng là Lí Bạch khi đi qua lầu Hoàng Hạc muốn đề thơ lại phải ngừng tay chỉ vì đã “có thơ Thôi Hiệu ở trên đầu”. Nay bài thơ Hoàng Hạc Lâu của tác giả Nguyễn Trung Ngạn đưa ra đây sẽ cho chúng ta thấy một rung cảm tuyệt đẹp của người con xa quê hương bản quán trước cổ nhân, trước danh thắng xứ người. Sau đây là toàn văn bài thơ.

黃鶴樓.

旅懷何處可消憂
黄鶴磯南一倚樓
夏口遠帆來別浦
漢陽情樹隔滄洲
樓前歌管回翁醉
檻外烟波太白愁
猛拍欄杆還自傲
江山奇绝我茲遊.

Phiên âm:
Hoàng hạc lâu.

Lữ hoài hà xứ khả tiêu ưu
Hoàng hạc cơ nam nhất ỷ lâu
Hạ khẩu viễn phàm lai biệt phố
Hán dương tình thụ cách Thương châu
Lâu tiền ca quản hồi ông túy
Hạm ngoại yên ba thái bạch sầu
Mãnh phách lan can hoàn tự ngạo
Giang sơn kì tuyệt ngã tư du.

Tạm dịch:

Giải buồn lữ thứ biết chơi đâu,
Hoàng hạc ghềnh nam thử tựa lầu
Hạ Khẩu buồm xa về biệt phố
Hán Dương cây nắng cách Thương châu
Ca vui trước gác ông Hồi khướt
Khói sóng ngoài hiên cụ Lí rầu
Tay gõ tự hào nơi tuyệt thú
Cảnh này ta đã đến tiêu dao.


Nguyễn Hạnh( theo một số tài liệu Hán Nôm).

THƯ PHÁP NHẬT BẢN

Thư pháp, một nghệ thuật viết chữ đẹp đã được coi trọng và nghiên cứu, sưu tầm say sưa đã từ lâu.


Lối viết chữ của người Trung Quốc với nhiều thể khác nhau đã được truyền dạy trong học thuật của đất nước này, với một thể mang tính cực đoan mà gần như không thể giải mã được là lối chữ Thảo. Vào thời nay, có những con người Nhật Bản nổi tiếng về thư pháp đã dâng hiến cả đời để hoàn thiện những kĩ năng của chính mình. Phổ biến nhất trong cách viết ở Nhật Bản là Gana, được dùng để miêu tả cả chữ viết ghi ý kiểu Hán tự và cả những kí tự ghi âm của Nhật Bản.
Thư pháp có thể được viết theo nhiều cách: Nét chữ nhỏ, thanh mảnh hoặc nét đậm với cách viết có những giọt mức bắn ra tự nhiên, được chăm chút kĩ lưỡng hoặc viết theo lối tự do phóng khoáng, cỡ chữ cũng thay đổi từ thật lớn cho đến bé xíu. Thơ truyền thống Haiku 諧句, Tanka 短歌 của Nhật Bản thường được viết theo lối Gana 剛 trong khi Phật giáo Thiền Tông thường được viết theo lối Koan 古闇, với những hình ảnh đi kèm.

Nguyễn Hạnh( Theo sách báo văn hoá Nhật Bản).

MỘT KINH NGHIỆM XEM MÂY DỰ ĐOÁN BINH CƠ TRONG CHIẾN TRANH CỦA NGƯỜI XƯA

Con người xưa đứng trong vòng trời đất, phải biết xem thiên tượng để dự đoán những điều sắp xảy ra. Nghệ thuật đó đã giúp ích nhiều cho cuộc sống thời bình cũng như chiến. Sau đây xin giới thiệu một cách xem mây của các tướng lĩnh ngày xưa.


PHÉP BÍ MẬT XEM CHÍN THỨC MÂY:

Thứ nhất:
Trời có sắc xanh biển : Trời mờ-mit, hỗn-độn, xanh thẩm, thấy mặt người cũng có màu xanh ắt là giặc tây nhung xâm-phạm biên-giới, nước trung ương chẳng được yên-ổn :

Thứ nhút, trời xanh thẫm lạ-lùng
Đế Vương lên điện hỏi Chu-Công,
Hiện ra điềm ấy chừngh nủa tháng,
Biên-cương ắt phạm giặc Tây-Nhung.

Thứ nhì:
Trời có sắc hồng : Điềm này chủ về việc đại-tướng, hiền-than bị tù hãm, đang yên-ổn mà bỗng đựng sinh ra như vậy Khi sắc hồng ấy hiện ra thì trung-thần bi chết oan.

Tự-nhiên trời đất biến ra hồng,
Hiền-sĩ không ngờ vướng ngục gông,
Ví bằng chẳng có cuồng-phong khởi
Trăm ngày hai nước cũng giao-phong

Thứ ba:
Trời có sắc vàng : Trung-thần, mưu-sĩ bị chết oan. Nếu dùng chín người để xem-xét sắc trời ấy thì mọi người đều nhận ngay là màu vàng.

Đang yên, tròi đất biến ra vàng,
Ắt có trung-thần phải chết oan,
Máu lan đầy đất trong muời tháng,
Yên, Tần, yêu-quái khởi làm càn.

Thứ tư:
Trời có sắc đen : Điềm này chủ về việc trong vòng ba trăm ngày sắp tới sẽ có kẻ . âm-mưu làm loạn. Bấy giờ sắc trời u-ám.

Đang yên, trời đất biến đen sì
Ắt có kẻ nao mưu loạn chi
Một tháng mà thôi, cơn loạn lạc
Tự -nhiên dập tắt chớ hồ nghi .

Thứ năm :
Trời làm sợ hãi vô cớ : Trời phát ra tiếng nổ như sấm, bay ra vang dội tới ngàn dặm. Tự-nhiên trời đang quang-đãng mà sinh ra như vậy.

Cây có điều hòa lặng-lẽ bao
Tiếng vang như sấm tự trời cao
Kinh-hoàng quân sĩ nơi muôn dặm
Ắt hẳn binh cơ cảnh giác cao

Thứ sáu :
Trời mở cửa : Nghe tiếng động lan ra giống như tiếng trời mở cửa. Bậc đế-vương đăng đàn bái tướng, trong một trăm ngày lệnh chúa hưng vượng, bèn trước hết dấy binh dẹp luạn. Nếu trong một tuần nhật, cửa trời mở về phương Ngọc-nữ thì có tiếng nổ như sấm nhưng không phải sấm.

Một tuần vang dội tiếng nghiêm thanh,
Ngọc-nữ phương trời cửa mở nhanh
Tiếng vọng xuống trần nghe ngỡ sấm.
Trăm ngày chưa tới ắt ra binh,
Bỗng dưng phá giặc ngoài biên-cảnh,
Hưng lệnh trời ban xuống nước mình, .
Để khiến ba quân tùy tướng lệnh,
Vua bèn bái tướng mới xuất-chinh.

Thứ bảy :
Trời thòng binh khí : Khí mây thòng xuống ở chân trời, như là dao cưa. Nên gấp tiến binh, đánh thì thắng lớn.

Mây trời hình dạng giống cưa dao,
Thòng xuống chân trời, giặc bại mau
Hướng ấy tuớng binh cùng quyết chiến,
Bốn phuơng tám sớ tất hàng đầu.

Thứ tám :
Khí trời không điều hòa, bốn mùa đều trái thời-tiết.

Hè làm tiết đông, bắc-phiên phản,
Đông làm tiết hè, ắt chinh nam,
Thu làm tiết xuân, giặc đông dậy,
Xuân làm tiết thu, giặc tây tràn.

Thứ chín :
Trời sinh biến ở hướng Càn : Chủ về việc hiền-thần khó trách luận để nhà Vua nghe theo. Mặt trời và mặt trăng khi sắp lặn còn cao một trượng thì có sắc đỏ.

Nhật nguyệt máu hườm, biến sắc đây
Âm dương có biến, chủ không hay
Tư-thiên rõ việc, bàn sai quấy,
Ngoài cuộc nói vào xét chẳng sai.

Nguyễn Hạnh ( Sưu tầm từ tư liệu Hán Nôm).

NGƯỜI XƯA THẤY GÌ Ở NHẬT THỰC

Ngày bé ai cũng đã ít nhất nhìn thấy hiện tượng Thiên thực một lần. Thiên thực chia làm hai loại là Nhật thực và Nguyệt thực. Cả hai hiện tượng này đều là những dấu hiệu thiên nhiên bình thường. Thế nhưng với người xưa chúng ẩn chứa những điều vô cùng thần bí, kì diệu. Và thế là nghệ thuật xem Thiên thực ra đời. Dưới đây là cách dự đoán Nhật Nguyệt Thực của người xưa.


PHÉP XEM CÁC LOẠI NHẬT-THỰC:

Dùng phép Hà-Đồ mà xem mặt trời.

Các trường hợp nhật thực đều do ở ngày hối (cuối tháng) và ngày sóc (đầu tháng) mà sinh ra nhật thực ; âm dương xâm lấn nhau, đi lạc đường tới ôm nhau, đô gọi là nhật-thực.

Nếu ở nơi có nhật-thực, có quan đại-thần âm-mưu làm hại nhà Vua, ắt là mặt trăng đi ngược án trước mặt trời : thiên-hạ sẽ dấy loạn.

Mặt trời mới mọc hai sào rồi bỗng dưng không sáng nữa đó gọi là mặt trời bệnh. Mặt trời sắp lặn ở phương tây, còn cao hai sào, bỗng dưng không sáng nữa, đó gọi là mặt trời chết.Trong địa phận nước ấy, bậc vương hầu gặp nạn lớn, các gian-thần đều nổi lên khuấy rối.

Nếu mặt trờí đỏ như máu thì tbiên-hạ sẽ có loạn lớn.

Mặt trời mới mọc mà bị ăn thì sẽ thua binh, mất thành.

Từ giờ ngọ trở về sau mà mặt trời bị ăn thì binh-gia nghỉ việc giao chiến.

Vào tháng tám mùa thu mà có nhật thực thì. có việc đao-binh xảy ra và phe khách được thắng.

Vào tháng mười hai mà có nhật-thực, điều ấy chủ về việc có binh dấy loạn.

Khi nhật-thực mà mặt trời bị ăn hết thì rợ man (phía nam) và rợ di (phía đông) nổi loạn, nên gấp lo việc binh-bị

Nguyệt thực xảy ra vào những ngày giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ thì sẽ có việc đao-binh.

Nguyệt-thực xảy ra vào những ngày canh, tân, nhâm, quí thì không nên tính tới việc binh


Nguyễn Hạnh ( Từ kho sách cổ).

ĐOM ĐÓM

Đom đóm hay bọ phát sáng là những loài côn trùng cánh cứng nhỏ được gọi chung là họ Đom đóm (Lampyridae) có khả năng phát quang.



Đom đóm là động vật tiêu biểu cho vùng ôn đới mặc dù phần lớn các loài sống ở vùng nhiệt và cận nhiệt đới. Chúng là những sinh vật có tập tính hoạt động về ban đêm, con đực thường có cánh và bay vào những đêm đầu mùa hạ. Nhiều loài, con cái không có cánh. Con đực, con cái và ấu trùng phát ra ánh sáng lạnh và thường có màu đỏ cam hay vàng xanh; một số loài thậm chí trứng cũng phát quang. Người ta cho rằng, ánh sáng giữ vai trò quan trọng trong tập tính sinh sản của chúng với mục đích hấp dẫn con khác giới. Tuy nhiên, ở ấu trùng thì sự phát sáng nhằm mục đích cảnh báo các động vật ăn thịt là chủ yếu, do ấu trùng Đom đóm chứa các hóa chất có mùi vị khó chịu và có thể là độc đối với các động vật ăn thịt khác.

Ánh sáng của Đom đóm được phát ra bởi một cơ quan phát sáng nằm ở dưới bụng. Cơ quan này cấu tạo từ vài lớp tế bào nhỏ phản xạ ánh sáng và một lớp tế bào phát sáng. Tế bào phát sáng được điều khiển bởi thần kinh và các ống khí; ôxy được cung cấp bởi các ống khí chuyển hóa luciferin của tế bào phát sáng thành oxyluciferin. Quá trình ôxy hóa này được xúc tác bởi enzym luciferase đã giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng. Côn trùng kiểm soát việc phát sáng bằng cách điều hòa lượng không khí cung cấp cho tế bào. Cường độ và tần số phát sáng rất đa dạng phụ thuộc vào loài và đặc biệt là để phân biệt con đực với con cái. Sự nhấp nháy đồng bộ là đặc trưng của một số loài nhiệt đới. Có người cho rằng mục đích của việc nhấp nháy của Đom đóm là để tìm bạn tình và không cho chim đi ăn đêm tấn công.
Đom đóm trưởng thành của nhiều loài thường không đi kiếm ăn, mục tiêu duy nhất là thực hiện hành vi sinh sản. Thông thường, Đom đóm trưởng thành chọn các vùng đất ẩm ướt, rồi đẻ trứng lên mình các loại ốc và giun đất bằng cách tiêm lên con mồi dung dịch thủy phân. Ấu trùng nở từ trứng sẽ sử dụng trên dinh dưỡng trực tiếp từ các cơ thể con mồi sống. Ấu trùng hóa nhộng sau khoảng 1 - 2 năm. Cả ấu trùng và con cái không cánh đều được gọi là giun phát sáng (glowworms). Loài giun phát sáng phổ biến ở châu Âu là Lampyris noctiluca. Những loài này được coi là có lợi vì chúng tiêu diệt những tác nhân phá hoại mùa màng như ốc và ốc sên. Trong bộ cánh cứng, ngoài Đom đóm còn có nhiều loài côn trùng có khả năng phát sáng khác…
Thế là những gì khoa học hiện đại khái quát về Đom đóm thì chỉ có thế, nhưng người xưa từ lâu đã để ý đến nó rồi…
Theo Tấn Thư, Xa Dận, tự Vũ Tử người đời Tấn, lúc ít tuổi rất chăm học. Vì nhà nghèo nên mùa hè phải bắt đom đóm cho vào túi để lấy ánh sáng mà đọc sách. Thế cho nên hình tượng con Đom đóm trong văn học cổ thường liên quan đến việc học hành gian khổ theo lối khoa cử. Ngày nay ở một số vùng nông thôn ở Việt Nam hay Trung Quốc, người dân (đặc biệt là trẻ em) vẫn có thói quen bắt Đom đóm bỏ vào những vật dụng trong suốt (ví dụ vỏ trứng) để làm trò chơi hoặc vật dụng chiếu sáng như đèn lồng.
Trong các sách Y học cổ cũng từng nhắc đến Đom đóm như là một thứ thuốc chữa bệnh hữu ích cho con người.
Quyển đầu, sách Nam Dược Thần Hiệu của Lương Y, Thiền Sư Nguyễn Bá Tĩnh chép: “ Đom đóm vị cay, tính ấm, không độc, có ánh sáng, thông thân, sát trùng, trị trẻ con ghẻ lở, chứng quỉ chú (Chết giả, ngất giả), mẳt thong manh.
Phần Lĩnh Nam bản thảo trong HẢI THƯỢNG Y TÔNG TÂM LĨNH cũng ghi:
Huỳnh Hoả tục gọi con Đom đóm,
Không độc, ấm cay, tính sáng nhanh.
Thông thần, trừ cổ, trẻ mụn lở,
Quỉ chú, mắt mờ chữa sáng tinh.
Thế nhưng đây mới là điều đáng nói khi hoàng đế Đại Đường là Lý Thế Dân đã từng có thơ ca ngợi đức cần cù chịu khó và dũng cảm của giống côn trùng nhỏ bé này để nhằm răn dạy người đời:


的厯流光小
飄颻薄羽輕
恐畏無人識
獨自暗中明
Phiên âm:
HUỲNH
Đích lịch lưu quang tiểu,
Phiêu diêu bạc vũ khinh.
Khủng uý vô nhân thức,
Độc tự ám trung minh.
Nghĩa:
ĐOM ĐÓM.
Lập loè đôi cánh mỏng,
Một đốm lửa xinh xinh.
Hãi hùng chẳng ai biết,
Trong đêm sáng một mình.

Con đom đóm kia âm thầm chiếu sáng trong bóng đêm đầy bất trắc mà chẳng cần ai biết ai hay. Việc lấy con đom đóm, một giống côn trùng để làm gương mẫu này khiến chúng ta nhớ đến năm đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của con gà đòn, giống vật yêu thích của nguyên soái Lê Văn Duyệt. Quả là người xưa sống gần thiên nhiên, yêu thiên nhiên và cùng lớn lên với nó, để đến một ngày bản thể chân như hoà cùng vũ trụ. Đọc bài thơ Đom đóm do một vị hoàng đế Trung Hoa làm nên cách đây ngàn năm, chúng ta càng thấm nhuần cái đạo lí “Vạn vật học ở Đạo, Đạo học ở tự nhiên” của người xưa. Đom đóm, giống vật giản dị ấy, đã cho ta bài học lớn diệu huyền của đại trụ.

Để kết thúc câu chuyện người viết bài này chỉ xin nhắc lại một câu trong Đạo Đức kinh:
… “Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn”.
(Đạo màu càng màu, chúng diệu phép sâu).
Cái huyền diệu có khi chỉ nằm trong những điều giản dị xung quanh ta vậy.

Nguyễn Hạnh ( Viết theo nhiều tư liệu khoa học).

TỪ MỘT CHUYỆN XƯA

Sách Tây Dương tạp trở chép trong những năm Đại Lịch người ta nhìn thấy trên một cây cầu ở Thiên Tân, Đông Đô có đứa ăn mày không có tay lấy chân phải kẹp bút viết chữ xin tiền. Mỗi lúc muốn viết, nó dùng chân tung bút lên cao hơn một thước mà chưa bao giờ thấy rơi xuống đất. Ai cũng công nhận chữ của nó viết ra rất ngay ngắn, nhiều người dùng tay cũng chưa chắc viết đẹp bằng. Đó là chuyện ngày xưa bên Trung Quốc, ngày nay ở Việt Nam, chúng ta đã chứng kiến bao tấm gương phấn đấu kiên trì như thế mà cô bé dưới đây là một ví dụ.





Em có đôi mắt đen toát lên một nghị lực phi thuờng, một nghị lực của thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký trong một cô bé 8 tuổi- Bé Thu, một em bé mà trên thân thể chỉ có hai chân vừa làm nhiệm vụ là chân mà cũng vừa là tay. .

Từ trung tâm xã Tân Long huyện Phú Giáo tới nhà cô bé ấy khoảng 7km. Từ nhà em ra trường học ở cơ sở Xóm Bưng (thuộc ấp 7 xã Tân Long) khoảng 1km. Cứ mỗi buổi sáng mẹ đèo em đến trường, tới trưa thì lên rước về. Công việc có vậy nhưng với bà đó là một niềm vui thật sự. Gia đình có ba chị em, Thu là con út và cũng chỉ có một mình em bị tật nguyền. Bà Lại Thị Viện, mẹ của em tâm sự: Hai vợ chồng quê tận ngoài Bắc, năm 1986 vào đây gặp nhau rồi sau đó họ trở thành vợ chồng. Cuộc sống của họ càng vui hơn vì sau đó ít năm hai bé gái liên tiếp chào đời.Năm 1988 một đứa bé tiếp tục ra đời nhưng người ta không cho mẹ nó nhìn mặt. Mãi mấy ngày sau người ta mới dám cho bà nhìn mặt con gái bà. Khi nhìn thấy hình hài của em bà không cầm được nước mắt vừa thương mình, thương con nên bà đã khóc rất nhiều. Càng lớn bé Thu càng ốm yếu, không đi được, mãi đến năm 4 tuổi em nặng chưa được 10 ký.

Sinh thêm đứa con thứ ba cuộc sống gia đình càng khó khăn hơn, sáng sớm là hai vợ chồng vác cuốc đi làm mướn, tối mịt mới về. Ba đứa con gái cứ nương tựa nhau ở nhà. Nói tới đây đôi mắt bà Viện đỏ hoe, bà muốn khóc, vì những ngày hạnh phúc như hôm nay đối với bà như là một giấc mơ. Cuộc sống càng ngày càng khó khăn, có người xúi bà đem bé Thu đi cho vì sợ miệng lưỡi người đời. Nếu không thì gửi cho ai đó nuôi giùm đến lớn thì đem về. Nhiều đêm hai vợ chồng suy nghĩ rất nhiều về tương lai của con. Núm ruột của mình mà sao nỡ đem cho, gia đình quyết định mặc cho người ngoài nói gì thì nói họ vẫn giữ bé với gia đình. Căn nhà khang trang của gia đình bé Thu nằm lọt thỏm giữa vườn cao su rộng. Từ khi cây cao su có giá cuộc sống gia đình bà Viện cũng ổn định hơn, họ xây nhà, sắm sửa vật dụng trong nhà và có điều kiện cho con mình đi học.

Mẹ bé Thu ôm em vào lòng, vuốt ve mái tóc của em rồi nói ngày mà nó đòi đi học cả nhà mới lo làm sao, cứ lo nó làm sao viết, làm sao học theo kịp chúng bạn. Những nỗi lo ấy là có cơ sở vì thân hình em ốm yếu hơn những đứa bé cùng trang lứa, không tay làm sao cầm bút. Cuối cùng em đã làm mọi người giật mình vì khả năng của mình. Bé Thu lấy ngón chân cái và ngón kế đó kẹp chặt cây bút lại và viết. Bài tập đầu tiên thật vất vả và những đường nét ngoằn ngoèo bắt đầu hiện ra. Kẹp bút hồi lâu thì mỏi nhừ, cây bút rơi ra nhưng cô bé ấy không nản, vẫn tiếp tục dùng chân kẹp bút lên và tiếp tục viết. Thời gian trôi dần với sự miệt mài của em đã được đền đáp, những con chữ đã bắt đầu thành hình. Đó là hành trình gian khổ của bé Thu.

Bây giờ thì những nét chữ của Thu càng ngày càng tròn trịa hơn cũng như thân hình cô bé càng ngày càng lớn hơn, duy chỉ có hai cánh tay là vẫn thế, không có gì biến chuyển. Từ năm lớp một đến nay em đều đạt được thành tích là học sinh khá của trường tiểu học Tân Long.

Năm nay bé Nguyễn Thị Thu đã học lớp 3, ba năm viết bằng bàn chân đồng thời hăng say lao động giúp đỡ gia đình đã đem lại cho em niềm tin cuộc sống, nghị lực phi thường và đôi chân vô cùng điêu luyện.

Một năm học mới lại bắt đầu ở một vùng quê của huyện Phú Giáo, có một cô bé tật nguyền đã biết vượt qua được chính mình để tìm đến với con chữ, sự nỗ lực ấy đã làm nên một câu chuyện đã trở thành những minh chứng hùng hồn cho những người tàn tật, tuy thân thể không đủ đầy mà đã là tấm gương cho bao người.


Nguyễn Hạnh (Từ nhiều tư liệu)

BẢN DỊCH MỘT BÀI THƠ

Những người Châu Âu thường hay hài hước. Sự hài hước ấy luôn có mặt trong cuộc sống thường ngày, gắn liền với lẽ sống và những răn dạy xã hội.

Trước đây, những ai đã sang Pháp chắc hẳn đã quá quen với câu: “ Nếu trong cuộc đời bạn nói chữ NẾU thường xuyên thì bạn có thể đút cả thành Paris vào trong túi”. Thật vậy, mọi thứ trên thế giới không phải bao giờ cũng theo ý mình, NẾU tức là bạn đã hoàn toàn cho rằng ngoại cảnh phải phụ thuộc hoàn toàn vào suy nghĩ và hành động chủ quan của mình vậy, Thế nhưng, sống trong đời sống lại cũng luôn có sự nuối tiếc và cả những ước mơ. Trong 100 sự thực, bạn vẫn mong có một chữ NẾU ngọt ngào…

Dưới đây là một bài thơ tiếng Pháp với nhan đề NẾU.

Si

Si tu peux voir détruit l’ouvrage de ta vie
Et sans dire un seul mot te mettre à rebâtir,
Ou perdre en un seul coup le gain de cent parties
Sans un geste et sans un soupir.
Si tu peux être amant sans être fou d’amour,
Si tu peux être fort sans cesser d’être tendre,
Et, te sentant hai, sans hair à ton tour,
Poutant lutter et te défendre,
Si tu peux supporter d’entendre tes paroles
Travesties par des gueux pour exciter des sots,
Et d’entendre mentir sur toi leurs bouches folles
Sans mentir toi-même d’un mot.
Si tu peux rester digne en étant populaire,
Si tu peux rester peuple en conseillant les rois,
Et si tu peux aimer tous tes amis en frère,
Sans qu’aucun d’eux soit tout pour toi:
Si tu sais méditer, observer et connaitre.
Sana jamais devenir sceptique ou destructeur,
Rêver, mais sans laisser ton rêver être ton maitre,
Penser, sans n’être qu’un penseur.
Si tu peux être dur sans jamais être en rage,
Si tu peux être brave et jamais imprudent,
Si tu peux être bon, si tu sais sage,
Sans être moral ni pédant.
Si tu peux rencontrer TRIOMPHE après DÉFAITE
Et recevoir ces deux menteurs d’un même front,
Si tu peux conserver ton courage et ta tête,
Quand tous les autres les perdront,
Alors les Rois, le Dieux, la Chance et la Victoire
Seront à tout jaimais tes esclaves soumis.
Et se qui vaut bien mieux que les Rois et la Gloire,
Tu seras un Homme, mon fils!!!

NẾU

Nếu một lần con về tay trắng,
Dù trăm phen đã chiến thắng rồi,
Đứng lên không thù không oán
Từ lòng trong chẳng oán một lời.

Nếu đã biết cương nhu phải lúc,
Muôn dặm trường, tránh lối đọa sa.
Khen chê vẫn nết hiền hoà,
Sắt son giữ thẳng miễn là giữ thân!

Nếu có kẻ rắp tâm làm ác,
Đằng sau lưng bịa chuyện rông dài,
Tâm Thiên Chúa thuỷ chung đằm thắm,
Vẫn muôn vàn rộng mở vui tươi.

Nếu đã là người trong Tứ Hải,
Đạo anh em khuyên nhủ cho tròn,
Nhỏ to chẳng kể thiệt hơn,
Quyết không bè đảng gian lơn hại người.

Nếu lại biết nhìn xa trông rộng,
Biết tiếng trong tiếng đục gạn ra,
Đam mê mà chẳng phù hoa,
Viển vông chớ tưởng, ma tà chớ theo.

Nếu trên cao mà không rẻ dưới,
Đúc gan vàng, biết tính dọc ngang,
Muôn đường ngay thảo đàng hoàng,
Quyết không lên mặt ra ràng Ta Đây!

Nếu đã biết đời như ánh chớp,
Nhục hay Vinh cũng cuộc hý trường,
Chỉ đem tày liếp soi gương,
Tĩnh tâm bế mục ngược ngang mặc lòng!!!

Nếu đã được những gì vừa kể,
Thời Niết Bàn, Nước Chúa tới ngay,
Vinh quang, hạnh ngộ đủ đầy,
Vì ta đã biết làm NGƯỜI ai ơi!!!

Khuất Lão động chủ Nguyễn Hạnh ( Dịch từ bài SI do André Maurois phỏng theo bài IF của Rudyard Kipling)

MÙ TẠC-MÓN ĂN CỦA NHỮNG NGƯỜI DŨNG CẢM

Sở dĩ nói như vậy là bởi vì đặc điểm khó chơi của loại gia vị này. Chắc ai đã từng nếm qua nếu chưa quen đều phải một phen kinh hoàng vì độ sốc của nó, thật là “Đi lên rồi lại đi xuống”, sục sạo trong cơ thể. Có người nói, cảm giác ăn Mù tạc còn kinh khủng hơn say sóng. Có phải vì thế chăng mà ở Nhật Bản, người ta coi nó là thức ăn của “Những người đi biển dũng cảm”?! Vậy thì thực chất Mù tạc là gì?


Theo đúng định nghĩa kiểu SGK thì Mù tạc hay Mù tạt là tên gọi chung để chỉ một vài loài thực vật (có họ hàng với cải dầu- B. napus) thuộc chi Brassica mà các hạt nhỏ được sử dụng để làm gia vị và bằng cách nghiền nhỏ sau đó trộn với nước, dấm hay các chất lỏng khác thì nó trở thành các loại bột nhão là Mù tạc thương phẩm. Hạt của chúng cũng được ép để sản xuất dầu mù tạc, và lá non của chúng có thể ăn như một loại rau xanh.
Mù tạc trắng (Brassica hirta) mọc hoang tại Bắc Phi, Trung Đông và vùng ven Địa Trung Hải của châu Âu và đã được phổ biến rộng hơn nhờ gieo trồng; Mù tạc nâu hay Mù tạc Ấn Độ (B. juncea), có nguồn gốc từ khu vực chân núi Hy Mã Lạp Sơn, được trồng với quy mô thương mại tại Vương quốc Anh, Canada và Mỹ. Mù tạc đen (B. nigra) trồng tạiArgentina, Chile, Mỹ và một vài quốc gia châu Âu. Canada sản xuất khoảng 90% lượng hạt Mù tạc trên thị trường quốc tế.
Ngoài Mù tạc, chi Brassica còn bao gồm Cải bắp, Hoa lơ, Cải dầu và Cải củ.

Trong ngành thực phẩm, chúng ta biết đến hai loại Mù tạc sau:
Mù tạc vàng (mustard): Ở Mỹ hay ở đâu đó trên thế giới, quý vị nào thích ăn món hotdog của Mỹ đều phải biết mustard. Loại gia vị sệt như tương ớt VN, có màu vàng úa, chế biến từ hột cải cay mustard, có vị nồng nhẹ hay cho thêm vào những ổ bánh mì mềm kẹp cây xúc xích gọi là hotdog đó. Đối với bếp Âu Mỹ đây là loại gia vị phổ thông y như nước mắm ở VN vậy. Nó dùng làm gia vị tẩm ướp chế biến những món thịt có mùi nặng như bò, ngựa, cừu…; tạo mùi chính cho vài kiểu salad, ăn kèm những món bò nướng, chiên nếu thích.

Mù tạc xanh (wasabi): Là gia vị không thế thiếu trong những món hải sản ăn sống (sashimi) của người Nhật. Gia vị này chế biến từ cây wasabi (VN vừa có trồng loại cây này, sơ chế, xuất đi Nhật để họ làm thành Mù tạt xanh rồi…bán lại cho người Việt). Loại gia vị này trên thị trường luôn được chế biến có màu xanh lá cây, đặc như kem đánh răng nên hay chứa trong tube, vị cay rất nhẹ, chủ yếu là mùi nồng gắt, tạo cảm giác sộc lên mũi khi ăn nhiều nhưng sẽ dịu đi sau vài phút, đủ cho thực khách rút kinh nghiệm mà… chấm ít đi. Wasabi làm giảm rất hiệu quả vị tanh của những món ăn chế biến bằng hải sản sống nói chung. Nhưng chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn cho nên khó dùng Wasabi để tẩm ướp thực phẩm khi nấu nướng như kiểu dùng ớt để kho cá VN chẳng hạn. Wasabi được sử dụng nhiều ở Á châu và vài nhà hàng VN ở Sài Gòn đã dùng Wasabi kèm với chanh vắt, gừng trong nhiều món cá sống VN.

Xin nói đến Mù tạc xanh với bạn muốn ăn tôm sống, cá sống, nói nhã là "ăn gỏi", rằng bây giờ các nhà hàng ăn uống ở trong thành phố lúc nào cũng sẵn sàng chiều bạn món này, thật dễ kiếm (Chứ không như có một dạo đi Xuân Hoà, để ăn món gỏi cá Mè mà tôi cùng một anh bạn phóng xe khắp chợ mà không tìm thấy tube Wasabi nào)... Thân tôm bóc nõn, chẻ đôi, còn dính ở phần đuôi, xếp nghiêng tăm tắp trên một cái đĩa hình bầu dục, trông rất đẹp. Khi ăn, một cô phục vụ bàn mới lấy chanh vắt nhiều vào đĩa tôm, sao cho thịt tôm đang màu trong chuyển qua màu vàng trắng. Thế rồi cô ấy lấy bánh đa nem, đặt lên đó nào rau thơm, khế chua, chuối chát, dứa ương và con tôm đã được làm tái bởi chanh, đã ngắt bỏ đuôi, cuộn tròn lại, chấm vào đĩa nhỏ xíu như cái vỏ sò thứ xì dầu đã đẫm Mù tạt, "Đút" vào miệng bạn, mời cắn. Mù tạt xộc lên mũi cay hớp hớp, chỉ chực chảy nước mắt. Rượu Tây, ngon là "Dòng" Vodka,"Thủ đô", của Nga hay Hung, Bun, Tiệp gì đó sau khi cái gia vị cay xộc hoành hành được chiêu vào càng làm cho mùi vị hung hăng lên rõ rệt. Bạn thử xem có kém gì say sóng không?!?

Có những nghiên cứu gần đây nhằm tạo ra các giống mù tạc có chứa hàm lượng dầu cao hơn để sử dụng trong sản xuất dầu điêzen sinh học, một loại nhiên liệu lỏng tái sinh tương tự như dầu điêzen. Dầu điêzen sinh học từ dầu mù tạc có các tính chất chịu lạnh tốt và có chỉ số cetan khá cao. Bã còn lại sau khi ép dầu cũng là một loại thuốc trừ sâu có hiệu quả.

Tồn tại ở xứ sở thực phẩm từ lòng hải dương, luôn phải đối đầu với sóng thần, bão biển và động đất, Mù tạc như là một món ăn tượng trưng cho tính khắc khổ của cư dân Nhật Bản.

Nguyễn Hạnh